Bài tập học kỳ hình sự module 1 đề số 5

Trong cuộc sống có nhiều người có đầy đủ năng lực nhận thức để nhận biết hành vi của mình là vi phạm hay không vi phạm pháp luật. Tuy nhiên họ vẫn cố ý thực hiện những hành vi trái pháp luật đó. Vậy những hình phạt của pháp luật nước ta đối với họ ra sao?. Để hiểu hơn về vấn đề này em xin đi sâu vào tìm hiểu thông qua một tình huống cụ thể về tội hiếp dâm như sau: “ A làm quen với B trên mạng. Sau vài lần trò chuyện, A ngỏ lời yêu B và hẹn B đi chơi, B nhận lời. Được B nhận lời mời đi chơi A có ý định hiếp dâm B nên gọi điện cho N, V, Q và rủ ba tên cùng thực hiện tội phạm. Sau khi đưa nạn nhân đến chỗ vắng, cả bốn tên thay nhau thực hiện hành vi hiếp dâm nạn nhân nhiều lần”.

doc11 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2504 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập học kỳ hình sự module 1 đề số 5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC. Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ…………….…………………….................………………1 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ…………………………………..............……...2 I. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội hiếp dâm………………………………..........….…..2 II. Xác định khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án…………………………………………............……3 III. Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm hình thức?. Giải thích rõ tại sao?.......................4 IV. A, N, V, Q có phải là những người đồng phạm không?. Xác định vai rò của từng người trong vụ án trên………………….......7 V. Gỉa thiết Q chỉ có hành vi giữ tay chân B để 3 tên A, N, V giao cấu với nạn nhân. Có ý kiến cho rằng A, N, V là người thực hành, còn Q là người giúp sức. Vậy ý kiến của anh chị thế nào?. Giải thích rõ tại sao?......................................................................9 C. KẾT THÚC KẾT VẤN ĐỀ……………………………........……....10 A.ĐẶT VẤN ĐỀ. Trong cuộc sống có nhiều người có đầy đủ năng lực nhận thức để nhận biết hành vi của mình là vi phạm hay không vi phạm pháp luật. Tuy nhiên họ vẫn cố ý thực hiện những hành vi trái pháp luật đó. Vậy những hình phạt của pháp luật nước ta đối với họ ra sao?. Để hiểu hơn về vấn đề này em xin đi sâu vào tìm hiểu thông qua một tình huống cụ thể về tội hiếp dâm như sau: “ A làm quen với B trên mạng. Sau vài lần trò chuyện, A ngỏ lời yêu B và hẹn B đi chơi, B nhận lời. Được B nhận lời mời đi chơi A có ý định hiếp dâm B nên gọi điện cho N, V, Q và rủ ba tên cùng thực hiện tội phạm. Sau khi đưa nạn nhân đến chỗ vắng, cả bốn tên thay nhau thực hiện hành vi hiếp dâm nạn nhân nhiều lần”. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I/. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội hiếp dâm. Điều 111 BLHS đã quy định rõ những khung hình phạt đối với từng mức độ phạm tội cụ thể của tội hiếp dâm, căn cứ và đối chiếu với khoản 3 điều 8 BLHS có thể phân loại tội đối với tội hiếp dân như sau: Theo khoản 1 Điều 111: “ Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. Ở đây ta thấy khung hình phạt quy định từ hai năm đến bảy năm. Căn cứ vào khoản 3 điều 8 BLHS những trường hợp phạm tội thuộc khoản 1 Điều 111 sẽ thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Vì khoản 3 Điều 8 BLHSđã quy định cụ thể về tội phạm nghiêm trọng là “ tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù”. Đối với những trường hợp phạm tội thuộc khoản 2. và khoản 4 Điều 111 BLHS. + Khoản 2: “ phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. a.có tổ chức b.Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh c.Nhiều người hiếp một người d.Phạm tội nhiều lần đ. Đối với nhiều người e. Có tính chất loạn luân g. Làm nạn nhân có thai. h. Gây tổn hại cho sức khỏe nạn nhân mà tỉ lệ thương tật từ 31% đến 60% i. Tái phạm nguy hiểm + Khoản 4: “ phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm”. Qua hai khoản này cho thấy khung hình phạt đối với trường hợp phạm tội tại khoản 2 Điều 111 là từ 7 năm đến 15 năm. Đối với trường hợp phạm tội tại khoản 4 Điều 111 là từ 5 năm đến 10 năm. Như vậy căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS có thể phân loại tội phạm đối với những trường hợp phạm tội tại khoản 2 và khoản 4 Điều 111 thuộc vào loại tội phạm rất nghiêm trọng. Vì khoản 3 Điều 8 BLHS quy định: “ Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù”. Những trường hợp phạm tội thuộc khoản 3 Điều 111 BLHS: “ phạm tội thuộc một trong các trường hợp phạm tội sau đây thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân: a.Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỉ lệ thương tật từ 61% trở lên b.Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội c.Làm nạn nhân chết hoặc tự sát”. Ở đây khung hình phạt quy định đối với trường hợp phạm một trong các tội quy định tại khoản 3 Điều 111 thì sẽ bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS thì những trường hợp này sẽ thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Vì khoản 3 Điều 8 BLHS đã quy định: “ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”. Như vậy căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS thì tội hiếp dâm được chia thành 3 loại tội đó là: Tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng II./ Xác định khách thể và đối tượng hành động của tội phạm trong vụ án. 1.Xác định khách thể trong vụ án. Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Nó là một trong bốn cấu thành tội phạm có vị trí đặc biệt. Khoa học luật hình sự Việt Nam phân biệt ba loại khách thể của tội phạm đó là. + Khách thể chung + Khách thể loại + Khách thể trực tiếp Ở đây xác định khách thể trong vụ án em xin đi vào xác định khách thể trực tiếp. Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể bị loại tội phạm cụ thể trực tiếp xâm hại, và sự xâm hại này thể hiện được đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó. Khách thể trực tiếp của tội phạm trước hết phải là những quan hệ xã hội bị tội phạm cụ thể trực tiếp gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Bất cứ tội phạm nào cũng đều có khách thể trực tiếp. Có tội phạm chỉ có một khách thể trực tiếp. Nhưng cũng có tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp. Theo đó thì vụ án trên thuộc tội hiếp dâm nó xâm phạm vào nhân phẩm, danh dự tức là xâm phạm vào quyền tự do tình dục của phụ nữ. Cụ thể trong vụ án này là xâm phạm quyền bất khả xâm phạm tình dục của B. 2. Đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án. Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận khách thể cuả tội phạm bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Bất cứ tội phạm nào cũng đều tác động làm biến đổi tình trạng của những đối tượng tác động cụ thể. Sự làm biến đổi tình trạng này là phương thức gây thiệt hại cho quan hệ xã hội . Sự làm biến đổi tình trạng của đối tác động trong chừng mực nhất định cũng có thể được gọi là xâm phạm đến đối tượng tác động hành động như thực tế hiện nay vẫn gọi tên một số nhóm tội theo đối tượng tác động. VD: Các tội xâm phạm tài sản, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe. Luật hình sự Việt Nam bảo vệ các quan hệ xã hội thông qua việc bảo đảm tình trạng bình thường cho các bộ phận cấu thành của các quan hệ xã hội đó. Sự bảo vệ các đối tượng tác động cụ thể luôn luôn có ý nghĩa là bảo vệ các bộ phận của quan hệ xã hội và qua đó bảo vệ toàn bộ quan hệ xã hội. Đối tượng tác động cuả tội phạm bao gồm một số loại như con người, các đối tượng vật chất với ý nghĩa là khách thể của quan hệ xã hội và hoạt động bình thường của chủ thể. Con người với ý nghĩa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội có thể bị gây thiệt hại khi có sự biến đổi tình trạng bình thường của con người. Qua đó ta thấy vụ án trên có đối tượng tác động của tội phạm B (con người) đã bị A, N, V, Q thay nhau thực hiện hành vi hiếp dâm nhiều lần. III/. Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm vật chất hay hình thức?. Giai thích tại sao?. Cấu thành tội phạm là những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Dựa vào những đặc điểm của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan có thể khẳng định cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm là cấu thành tội phạm hình thức. Giải thích rõ tại sao?. Dựa vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan có thể chia cấu thành tội phạm thành cấu thành tội phạm hình thức và cấu thành tội phạm hình thức. Trong đó: + Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. + Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có một dấu hiệu của mặt khách quan là hàn vi nguy hiểm cho xã hội. Điểm khác nhau giữa cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức là ở chỗ: Nhà làm luật quy định dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu hay không phải dấu hiệu bắt buộc trong từng cấu thành tội phạm. Việc xây dựng loại tội nào có cấu thành tội phạm cơ bản là cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm hình thức là xuất phát từ cơ sở khách quan sau: Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm của tội phạm hoặc hành vi nguy hiểm cho xã hội, là hậu quả khó xác định thì cấu thành tội phạm thường được xảy ra là cấu thành tội phạm hình thức. Nểu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa thể hiện được hoặc chưa thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà đòi hỏi phải có cả hậu quả nguy hiêm cho xã hội, thì cấu thành tội phạm thường được xây dựng là cấu thành tội phạm vật chất. Dựa vào những đặc điểm đó thì tội hiếp dâm có cấu thành tội phạm hình thức vì: Theo Điều 111 BLHS thì tội hiếp dâm là: “ người nào dùng vũ lực đe dọa dùng vũ lực, hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân, dùng thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ…”. Xét về mặt khách quan: Tội phạm hiếp dâm được thể hiện ở hành vi dùng vũ lực, hoặc thủ đoạn khác đe dọa, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được để giao cấu với nạn nhân. Cấu thành tội phạm hiếp dâm đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi giao cấu với nạn nhân. Nhưng không đòi hỏi hành vi giao cấu đã kết thúc về mặt sinh lý, hành vi giao cấu trái với ý muốn của người phụ nữ. Người phụ nữ không chấp nhận sự giao cấu, hoặc hàn vi giao cấu xảy ra không có ý muốn của người phụ nữ vì họ đang trong tình trang không thể biểu lộ được ý chí. Hành vi giao cấu với người phụ nữ trái với ý muốn của họ được thực hiện bằng một trong những thủ đoạn sau: Thủ đoạn dùng vũ lực là sức mạnh vật chất đè bẹp sự kháng cự của nạn nhân chống lại việc giao cấu như xô ngã, vật, giữ, bóp cổ nạn nhân. Thủ đoạn đe dọa dùng vũ lực là thủ đoạn làm ý chí của người phụ nữ bị tê liệt, buộc họ phải chịu sự giao cấu mà không dám kháng cự như: dọa giết, dọa gây thương tích cho nạn nhân. Thủ đoạn lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của người phụ nữ là thủ đoạn lợi dụng người phụ nữ vì lý do nào đó không thể chống cự lại được hành vi giao cấu trái với ý muốn của mình như: lợi dụng người phụ nữ trong tình trạng ốm đau. Thủ đoạn khác là thủ đoạn ( ngoài ba thủ đoạn trên ) giúp cho người phạm tội có thể thực hiện được việc giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ. Như vậy: chỉ riêng hành vi dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để giao cấu với người khác đã thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm của tội phạm hiếp dâm mà không cần xét đến hậu quả xảy ra sau đó, vì hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này, không đòi hỏi hành vi của giao cấu phải đã kết thúc về mặt sinh lý. Vì vậy tội phạm hiếp dâm thuộc cấu thành tội phạm hình thức. IV. A, N, V, Q có phải là những người đồng phạm không?. Nhận thấy A, N, V, Q là những người đồng phạm vì. Theo khoản 1 Điều 20 BLHS: “ Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Xét về mặt khách quan: Đồng phạm đòi hỏi có hai dấu hiệu: + Thứ nhất: Có từ hai người trở lên và những người này có đủ điều kiện của chủ thể phạm tội. Đó là điều kiện có năng lực trách nhiệm hình sự, và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Ở đây ta thấy A, N ,V, Q thỏa mãn điều kiện đầu tiên đó là có bốn người và đều có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đã thực hiện hành vi giao cấu với nạn nhân. + Thứ hai: Cùng thực hiện tội pham. Ở đây cả A, N, V, Q đều thực hiện cùng tội phạm thể hiện qua hành vi cả bốn tên thay nhau thực hiện hành vi hiếp dâm nạn nhân nhiều lần. Xét về mặt chủ quan: Đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội phạm đều có lỗi cố ý, cùng mục đích phạm tội. + Dấu hiệu lỗi: Khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hôi, mỗi người tham gia đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi của mình mà còn biết và mong muốn sự cố ý tham gia của những người đồng phạm khác. + Về lý trí: Cả bốn người A, N, V, Q đều biết hành vi hiếp dâm B của mình là nguy hiểm cho xã hội và cũng biết người khác cùng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đó là xâm phạm tình dục của B. +Về ý chí: Cả A, N, V, Q cùng mong muốn có hành động chung đó là hiếp dâm B và có sự liên kết hành vi thể hiện qua việc A rủ N, V, Q cùng thực hiện tội phạm đưa B đến chỗ vắng và thay nhau thực hiện hành vi hiếp dâm. Với hai dấu hiệu trên đó là cùng thực hiện tội phạm và cùng cố ý phạm tội. A, N ,V, Q thỏa mãn điều kiện trở thành đồng phạm. 2. Xác định vai trò của từng người trong vụ án trên. Theo khoản 2 Điều 20 BLHS thì đồng phạm bao gồm: Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Trong đó: Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Căn cứ vào khoản 2 Điều 20 cho thấy trong tình huống này cả bốn người A, N, V, Q đều là người thực hành vì cả bốn người đều trực tiếp thực hiện tội phạm hiếp dâm B biểu hiện đó là cả bốn tên thay nhau thực hiện hành vi hiếp dâm nạn nhân nhiều lần. Họ đóng vai trò quan trong trong vụ án. Tuy nhiên trong tình huống trên A không những chỉ là người thực hành mà A còn là người tổ chức vì: A chính là người trực tiếp hẹn B đi chơi và có ý định hiếp dâm B sau đó lại gọi điện rủ N, V, Q cùng thực hiện tội phạm. Như vậy A là người có hành vi nguy hiểm nhất trong vụ đồng phạm này. Theo nguyên tắc sử lý tội phạm được quy định tại Điều 3 BLHS thì A sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn N, V, Q. V/. Gỉa thiết Q chỉ có hành vi giữ chân tay B để ba tên A, N, V giao cấu với nạn nhân. Có ý kiến cho rằng A, N, V là người thực hành còn Q là người giúp sức. Vậy ý kiến của anh chị thế nào?.Giaỉ thích rõ tại sao?. Nhận định: ý kiến trên là sai trong cấu thành tội phạm hiếp dâm. ý kiến trên chỉ đúng trong trường hợp nếu Q là phụ nữ. Giải thích: Theo khoản 2 Điều 20 BLHS đã quy định đều cụ thể về người thực hành và người giúp sức trong đồng phạm căn cứ vào đó thì ý kiến trên là đúng. Nhưng trong tình huống này lại là tội phạm hiếp dâm, tội phạm yêu cầu chủ thể đặc biệt. Người thực hiện hành vi phạm tội của tội này chỉ có thể là nam giới. Trong trường hợp này cả A, N, V, Q đều là nam giới vì vậy rong cấu thành tội phạm hiếp dâm không đòi hỏi mỗi người phải thực hiện trọn vẹn hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm mà có thể mỗi người chỉ thực hiện một phần hành vi đó, nhưng đòi hỏi hành vi tổng hợp của họ phải là hành vi có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm. Trong vụ đồng phạm hiếp dâm này, nếu chỉ có mình hành vi của Q thì sẽ không thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tội hiếp dâm, nhưng hành vi tổng hợp của Q với A, N, V thì thỏa mãn hết các dấu hiệu của tội phạm đó. Tất cả cả A, N, V, Q đều là nam giới đều được coi là thực hành- đều là người trực tiếp thực hiện hành vi hiếp dâm. C.KẾT THÚC VẤN ĐỀ. Tình huống trên đây đã nêu cụ thể thêm phần nào về chủ thể, khách thể, đối tượng tác động và trách nhiệm hình sự của người phạm tội đối với hành vi phạm tội cùng với những biện pháp sử lý của pháp luật. Những quy định đó đối với họ chính là những biện pháp cưỡng chế sử lý của nước ta đối với những chủ thể phạm tội. D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Bộ luật hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đã được sử đổi bổ sung 19/ 06/ 2009. NXB Lao Động – xã hội 2009. 2. Trường đại học Luật Hà Nội – Giáo trình Luật hình sự Viêt Nam. Tập I NXB CAND 2010. 3. Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp, Bình luận khoa học BLHS Việt Nam, năm 1999 NXB CTQG 2001. 4. Trần Quang Tiệp, Đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam.
Luận văn liên quan