Pháp luật dân sự là một công cụ pháp lý của Nhà nước và công dân, góp phần thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ dân sự phát triển trong nền kinh tế - xã hội. Trong đó thì thừa kế là một quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể tham gia bao gồm người người để lại di sản và người thừa kế. Người để lại thừa kế chỉ có thể là một cá nhân, không thể là pháp nhân hay một cơ quan Nhà nước nào khác, nhưng người nhận thừa kế có thể là cá nhân, hoặc bất kì một pháp nhân nào khác.
Người để lại di sản thừa kế phải để lại di chúc, di chúc có thể là di chúc bằng văn bản hay bằng lời nói. Điều 649 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định rất rõ ràng về di chúc. Di chúc là sự bày tỏ, thể hiện ý chí, nguyện vọng của một con người cụ thể sẽ định đoạt tài sản của mình ra làm sao. Sự bày tỏ này có thể được thể hiện dưới các hình thức bằng chúc thư hoặc là những lời dặn dò, những lời trăng trối lúc hấp hối. Hình thức của di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc ra bên ngoài cho người khác biết, để sau này đó sẽ là những căn cứ pháp lý mà thực hiên ý chí của người đã chết. Tóm lại di chúc phải được lập theo quy định của pháp luật.
Di chúc trước hết phải được lập thành văn bản, Điều 5 Hiến pháp 1992 đã có quy định: " Các dân tộc ít người có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc.của mình". tuy nhiên di chúc có thể được viết bằng tiếng dân tộc mình hoặc bất kì dân tộc nào khác. Di chúc miệng chỉ được lập ra khi người để lại thừa kế không có điều kiện để lập di chúc bằng văn bản.
22 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2093 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài tập lớn dân sự- Hình Thức Của Di Chúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP LỚN HỌC KÌ
MÔN: Luật Dân Sự Việt Nam Module 1
ĐỀ SỐ 18:
Hình Thức Của Di Chúc
Họ và tên
:
Lớp
:
MSSV
:
Hà Nội, 2011
Đặt vấn đề .
Pháp luật dân sự là một công cụ pháp lý của Nhà nước và công dân, góp phần thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ dân sự phát triển trong nền kinh tế - xã hội. Trong đó thì thừa kế là một quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể tham gia bao gồm người người để lại di sản và người thừa kế. Người để lại thừa kế chỉ có thể là một cá nhân, không thể là pháp nhân hay một cơ quan Nhà nước nào khác, nhưng người nhận thừa kế có thể là cá nhân, hoặc bất kì một pháp nhân nào khác.
Người để lại di sản thừa kế phải để lại di chúc, di chúc có thể là di chúc bằng văn bản hay bằng lời nói. Điều 649 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định rất rõ ràng về di chúc. Di chúc là sự bày tỏ, thể hiện ý chí, nguyện vọng của một con người cụ thể sẽ định đoạt tài sản của mình ra làm sao. Sự bày tỏ này có thể được thể hiện dưới các hình thức bằng chúc thư hoặc là những lời dặn dò, những lời trăng trối lúc hấp hối. Hình thức của di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc ra bên ngoài cho người khác biết, để sau này đó sẽ là những căn cứ pháp lý mà thực hiên ý chí của người đã chết. Tóm lại di chúc phải được lập theo quy định của pháp luật.
Di chúc trước hết phải được lập thành văn bản, Điều 5 Hiến pháp 1992 đã có quy định: " Các dân tộc ít người có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc...của mình". tuy nhiên di chúc có thể được viết bằng tiếng dân tộc mình hoặc bất kì dân tộc nào khác. Di chúc miệng chỉ được lập ra khi người để lại thừa kế không có điều kiện để lập di chúc bằng văn bản.
Giải quyết vấn đề .
I. Cơ sở lý luận
1, Di chúc.
Di chúc là sự bày tỏ ý chí của một người (người để lại di sản) nhằm định đoạt toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc một phần tài sản của mình được chuyển giao cho một hoặc nhiều người sau khi người đó chết. Sự bày tỏ ý chí này gọi là lập di chúc. Nội dung di chúc thể hiện ý chí một bên là người để lại di sản thừa kế chỉ được thực hiện sau khi người đó chết. Vì vậy:
- Người để lại di sản thừa kề không bị ràng buộc bởi di chúc do chính mình lập ra, có thể sửa đổi di chúc hoặc huỷ bỏ bằng một bản di chúc khác sau này.
- Sẽ không có sự ràng buộc giữa người lập di chúc và người được chỉ định thừa kế theo di chúc hoặc của bất kỳ người nào khác trong thời gian người lập di chúc còn sống.
- Sau khi người lập di chúc chết thì chỉ có người được chỉ định thừa kế theo di chúc mới được bày tỏ ý chi của mình là nhận hay không nhận tài sản của người lập di chúc để lại.
2, Điều kiện của di chúc.
a, Về người để lại di chúc.
Theo quy định tại Điều 647 BLDS 2005, người để lại di sản phải đảm bảo các điều kiện sau:
Trước hết, người để lại di sản phải là người đã thành niên, không mắc các bệnh tâm thần hoặc bệnh nào khác mà không thể nhận thức được và không thể làm chủ hành vi của mình. Theo như Điều 18 bộ luật này người thì người thành niên là người đủ 18 tuổi trở lên. Người tuy chưa đủ 18 tuổi nhưng đã đủ 15 tuổi cũng có thể được lập di chúc với điều kiện phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ vào việc lập di chúc. Đây là quy định phù hợp, đúng tinh thần như Bộ luật lao động về đọ tuổi tối thiểu có thể tham gia lao động là 15 tuổi trở lên.
Người từ đủ 15 tuổi trở lên có thể có tài sản riêng, bởi vậy họ có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Tuy nhiên, vì người 15 tuổi trở lên và chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên, pháp luật quy định việc lạp di chúc phải được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ về việc lập di chúc.
Người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ nhưng đã thành niên cũng có quyền lập di chúc,. Tuy nhiên, việc lập di chúc của đối tượng này phải được người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của cơ quan công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban xã, phường, thị trấn.
Tiếp theo, ngưòi để lại di sản khi lập di chúc chỉ được phép định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, quyền sử dụng hợp pháp (là quyền sử dụng đất..), một phần trong khối tài sản chung với đồng chủ sở hữu khác.
b, Di chúc hợp pháp.
Thứ nhất, người để lại di sản lập di chúc phải ở trong tình trạng minh mẫn, sáng suốt. Lập di chúc là hành vi của chủ sở hữu (chủ sử dụng tài sản) định đoạt tài sản của mình nên họ phải nhận thức được hành vi đó khi thực hiện quyền định đoạt tài sản. Đây là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá giá trị pháp lý của di chúc, đảm bảo tính chính xác theo ý chí của chủ thể - người lập di chúc trong việc định đoạt tài sản của mình..
Thứ hai, người để lại di chúc phải hoàn toàn tự nguyện, không bị chi phối về mặt tinh thần , tâm lý hoặc thể chất, không bị ép buộc phải lập di chúc theo ý chí của người khác. Đây là điều kiện rất qun trọng vì di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc nên không thể ép buộc một ai đó lại lập di chúc khác tría với ý muốn của họ được,.
Thứ ba, nội dung của di chúc không trái với pháp luật, không đúng với lợi ích của xã hội. Vì đây sẽ là điều kiện để bảo đảm lợi ích của nhà nước cũng như toà xã hội. Người để lại di chúc không được định đoạt tài sản không thuộc sở hữu của mình, nội dung của di chúc không thể ép buộc người thừa kế đi ngược lại lợi ích cuả nhà nước, xã hội và không được trái pháp luật.
Thứ tư, hình thức của di chúc không được trái với quy định của pháp luật. Như đã nêu thì di chúc của người chưa thành niên thì phải có sự đồng ý cuả cha mẹ hoặc ngời giám hộ. Về di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải có người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng, chứng thực. Di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp nếu người ngời lập di chú miệng thể hiện ý chí của mình trước ít nhất hai người làm chứng, ngưòi làm chứng phải ghi rõ đầy đủ nội dung của di chúc này và cùng ký tên; đồng thời bản di chúc phải được công chứng, chứng thực trong thời hạn năm ngày kể từ ngày người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng.
c, Người làm chứng.
Điều 654, Bộ luật dân sự 2005 quy định về điều kiện của người làm chứng như sau: “Mọi người đều có thể là chứng cho việc lập di chúc, trừ những trường hợp sau đây:
Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung của di chúc;
Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.
Đây là một quy định nhằm đảm bao sự công bằng, khách quan, tính chính xác và nội dung đầy đủ của di chúc.
3, Các hình thức của di chúc.
Hình thức của di chúc là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản ra bên ngoài cho người khác biết, để sau này có căn cứ vào đó mà thực hiện ý chí của người để lại di sản sau khi người đó chết. Vì vậy trước hết di chúc phải được lập thành văn bản. Di chúc bằng văn bản được chia ra làm nhiều loại:
- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng.
- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng.
- Di chúc bằng văn bản có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
- Di chúc bằng văn bản có chứng thực.
Mỗi loại di chúc khi được lập ra đều có giá trị pháp lý như nhau , đều phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của pháp luật. Tuy nhiên, khi lập di chúc bằng văn bản người lập di chúc cần lưu ý là phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc. Vì pháp luật có quy định rằng người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế. Do đó, di chúc được lập sau sẽ có giá trị pháp lý hủy bỏ di chúc đã lập trước đó.
Trong một số trường hợp nhất định như ốm đau, bệnh tật hiểm nghèo, tình thế cấp thiêt ảnh hưởng đến tính mạng thì người để lại di sản có quyền lập di chúc bằng miệng, và giá trị pháp lý của di chúc miệng tương đương với di chúc bằng văn bản.
Điểm b, khoản 1, Điều 652, BLDS 2005 quy định: “Hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật”. Nếu pháp luật quy định về hình thức của di chúc phải được thể hiện dưới những hình thức nhất định hoặc phải thoả mãn những điều kiện cụ thể thì người lập di chúc phải thỏa mãn những điều kiện, hình thức đó, nếu không, di chúc sẽ vô hiệu. Theo quy định tại Điều 649, BLDS 2005 thì: “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình”.
II, Thực trạng pháp luật Việt Nam về hình thức di chúc.
Hình thức của di chúc là phương thức thể hiện ý chí của người lập di chúc (người để lại di sản), nhằm bày tỏ ý nguyện định đoạt toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc một phần tài sản của mình sẽ được chuyển giao cho một hoặc nhiều người ( cá nhân và pháp nhân) sau khi người đó chết. Sự bày tỏ được thể hiện thông qua hình thức bằng văn bản (di chúc bằng văn bản). hoặc bằng lời nói (di chúc miệng). Hình thức của di chúc là căn cứ pháp lý để phân chia tài sản cho người được chỉ định trong di chúc.
Hình thức di chúc bằng văn bản: Là hình thức bằng chữ viết, có thể viết tay hoặc đánh máy, được thể hiện trên một chất kiệu nhất định, chất liệu này được Nhà nước cho phép sử dụng và ghi nhận như mực in, giấy in, giấy viết
1, Di chúc bằng văn bản.
Điều 650. Bộ luật dân sự 2005 qui định Di chúc bằng văn bản bao gồm :
, Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
, Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
, Di chúc bằng văn bản có công chứng;
, Di chúc bằng văn bản có chứng thực.
Người lập di chúc bằng văn bản có quyền, tùy theo ý muốn của mình và tùy theo hoàn cảnh cụ thể chọn một trong những hình thức bằng văn bản nói trên khi lập di chúc bằng văn bản. Các hình thức nói trên đều có giá trị pháp lý như nhau. Tuy nhiên, khi lập di chúc bằng văn bản người lập di chúc phải ghi rõ ngày tháng, năm lập di chúc. Vì pháp luật có quy định, người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế di chúc. Do đó, di chúc lập sau có giá trị pháp lý hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc lập trước có nội dung trái di chúc lập sau.
a, Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng.
Điều 655, Bộ luật dân sự 2005 có quy định: “Người lập di chúc phải tự tay viết và kí vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo các quy định tại Điều 653 của Bộ luật này.”
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải do người lập di chúc phải tự tay viết hoặc kí vào bản di chúc. Nói cách khác, di chúc đánh máy không có gái trị pháp lý, dù rằng người lập di chúc biết đánh máy chữ và tự tay đánh máy di chúc.
Trong thực tiễn xét xử các vụ tranh chấp về di sản thừa kế đối với thừa kế the di chúc, đã xảy ra nhiều trường hợp một bên đương sự không thừa nhận di chúc và cho di chúc là giả mạo. Người ta cho rằng di chúc đánh máy không phải là di chúc do người để lại di sản lập ra mà do người khác lập, hoặc người để lại di sản chỉ kí vào bản di chúc đánh máy sẵn khi không còn minh mẫn vì kí vào lúc hấp hối, không phải chữ kí của người lập di chúc.
Quy định di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải do người lập di chúc rự tay viết có ý nghĩa như sau:
Chỉ sau khi người lập di chúc chết, di chúc mới được thi hành. Nếu có việc không thừa nhận di chúc, cho là giả mạo thì việc giám định nét chữ của một người trên một trang giấy hoặc nhiều trang giấy của một di chúc viết tay cũng dễ dàng và thuận lợi hơn là việc giám định chỉ có một chữ kí của người lập di chúc trong một di chúc đánh máy để xác định có giả mạo chữ viết hay không.
Việc tự tay mình viết di chúc thể hiện ý chí của mình định đoạt tài sản sau khi chết nói lên người lập di chúc ở trong trạng thái minh mẫn, sang suốt khi lập di chúc.
Việc lập di chúc không có người làm chứng phải tuân thủ theo quy định tai Điều 652 của Bộ luật dân sự.
b, Di chúc bằng văn bản có người làm chứng.
Trương hợp này người lập di chúc không thể viết được như cụt tay hay tay bị liệt..thì nhờ người khác viết hộ lại nội dung mà người lập di chúc công bố và phải có ít nhất là hai người làm chứng cho nội dung của di chúc đúng theo ý chí của người lập di chúc.
Di chúc bằng văn bản có người làm chứng được quy định tại Điều 656 như sau:
“ Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký tên hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những ngời làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 653 và Điều 654 của Bộ luật này.”
Có hai khả năng xảy ra trong trường hợp này: Thứ nhất, là hai người làm chứng cùng có mặt chứng kiến việc người lập di chúc công bố ý chí và người khác ghi lại nội dung.
Thứ hai, người lập di chúc nhờ người khác ghi lại nội dung của di chúc, sau đó người lập di chúc nhờ hai người làm chứng đọc nội dung đó cho người lập di chúc nghe và chứng kiến nội dung đó có đúng với ý chí của người lập di chúc hay không.
c, Di chúc bằng văn bản có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn, chứng nhận của Công chứng nhà nước.
Người lập di chúc tuyên bố ý chí của mình , công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực và ghi lại nội dugn của di chúc. Người lập di chúc đọc lại nội dung di chúc và, xác nhận đúng ý của mình và ký hoặc điểm chỉ, sau đó công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực và xác nhận tình trạng nhận thức của người lập di chúc và ký tên, đóng dấu vào bản di chúc.
Trường hợp người lập di chúc không ký tên, không điểm chỉ, không biết viết thì phải có người làm chứng chứng kiến việc tuyên bố ý chí của người lập di chúc.
d, Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc đã được chứng nhận.
Pháp luật dân sự Việt Nam đã dự liệu các trường hợp người lập di chúc không thể đến các cơ quan công chứng hoặc UBND để chứng thực, chứng nhận di chúc, thì nhứng người có thẩm quyền chứng nhận theo quy định tại Điều 660 của Bộ luật dân sự 2005 như sau;
Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị cấp đại đội trở lên, nếu như trong tình huống người quân nhân này không có điều kiện để thực hiện việc chứng nhận, chứng thực di chúc của mình theo các quy định của pháp luật.
Di chúc của người đang trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó. Đây là trường hợp dự liệu bất khả kháng của nhà làm luật khi có các trường hợp mà người lập di chúc không thể đến các cơ quan nhà nước để công chứng hoặc chứng thực bản di chúc đó.
Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng cần phảo có xác nhận của người phụ trách nơi đó. Trong trường hợp này cũng vậy, ở đây người để lại di chúc không thể hoặc không có điều kiện để có .
Di chúc của người đang làm công việc nghiên cứu, khảo sát, thăm dò, ở các vùng rừng núi, hải đảo thì phải có xác nhận của người phụ trách đơn vị đó.
Di chúc của người Việt Nam đang ở nước ngoài ( người có quốc tịch Việt Nam và không cư trú ở trong nước ), thì phải có xác nhận của cơ quan lãnh sự hoặc đai điện ngoại giao của Việt Nam ở nước đó.
Di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành các hình phạt tù, người đang chấp hành các biện pháp xử lý hành chính tại các cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh thì phải có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.
Như vậy pháp luật dân sự Việt Nam đã dự liệu các trường hợp người để lại di sản không có điều kiện để công chứng, chứng thực di chúc, điều này thể hiện một sự tiến bộ lớn của chế định thừa kế của luật dân sự Việt Nam, đây cũng là tất yếu khách quan, nhu cầu bức thiết vì không phải lúc nào người để lại di sản cũng có đầy đủ các vì nhiều lí do và hoàn cảnh khác nhau nữa.
2, Di chúc miệng.
Di chúc miệng là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản, thong qua lờ nói và được những người làm chứng ghi lại bằng văn bản. Tuy nhiên không phải bất cứ cá nhân nào cũng có thể được lập di chúc miệng. Bộ luật dân sự 2005 đã có quy định rất rõ rang về việc lập di chúc miệng tại Điều 651 như sau: “1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. 2. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sang suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.” Từ các căn cứ trên, có thể đưa ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, chỉ có thể lập di chúc miệng nếu cá nhân đang bị đe dọa về tính mạng bởi bệnh tật hoặc nguyên nhân khác mà không thẻ lập di chúc bằng văn bản được. Đây là trường hợp cá nhân đang ở trong tình trạng như liệt tay, nằm bất động do tai nạn hoặc bệnh tật khác.., mà không thể lập di chúc bằng văn bản. Cũng cần lưu ý ở đây, một người không biết chữ ở trong tình trạng bình thường về sức khỏe cũng không được lập di chúc miệng. Đối với những người bị hạn chế về thể chất ( khiếm thính hoặc khiếm thị ) mà không thuộc đối tượng mà đang bị đe dọa về tính mạng, sức khỏe thì cũng không được lập di chúc miệng. Tuy nhiên trường hợp này người lập di chúc miệng vẫn cần người làm chứng lập ra thành văn bản và có công chứng, chứng thực. Mặc dù pháp luật dân sự đã có quy định như vậy, nhưng đối vơi người không biết chữ và người có nhược điểm về thể chất khi lập di chúc thì về bản chất cũng giống như di chúc miệng, tuy vậy di chúc lập trong trường hợ nay khong bị giới hạn về thời gian như tại khoản 2 Điều 651 Bộ luật này.
Thứ hai, việc lập di chúc miệng phải có ít nhất hai người làm chứng, và nhứng người làm chứng không thuộc các trường hợ được quy định tại Điều 654, Bộ luật dân sự 2995.
Thứ ba, sau khi làm chứng cho việc lập di chúc miệng, những người làm chứng phải cùng nhau chép lại nội dung của di chúc và cùng ký ten hoặc điểm chỉ.
Thứ tư, trong thời hạn năm ngày ( khoản 5, Điều 652, Bộ luật dân sự 2005) kể từ ngày người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng trước người làm chứng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực. Đây cũng là một điểm mới hơn của Bộ luật dân sự 2005 so với Bộ luật dan sự 1995.
Thứ năm, theo quy định sau ba tháng kể từ ngày lập di chúc miệng nếu người lập di chúc miệng còn sống, minh mẫn, sang suốt. thì di chúc miệng này đương nhiên bị hủy bỏ ( khoản 2, Điều 651 ).
III, Thực tiễn áp dụng.
Thực tiễn cho thấy không phải lúc nào di chúc lập ra cũng được coi là hợp pháp vì rất nhiều trường hợp người lập di chúc đã vi phạm các nguyên tắc về hình thức hay nội dung của di chúc. Trải qua nhiều năm xét xử các vụ kiện tụng, tranh chấp về thừa kế đã kéo dài, không chỉ gây phiền hà đến những người liên quan, mất thời gian và tiền bạc của công dân. Điển hình như một vụ kiện đã kéo dài đến mười năm về thừa kế ở tỉnh Tiền Giang
vẫn chưa được giải quyết ổn thỏa theo như nguyện vọng của nguyên đơn, cuối cùng Tòa án nhân dân tối cao đã ra quyết định giám đốc thẩm số 04/UBTP – DS ngày 08/02/2001, vì một lí do là di chúc không khách quan và không hợp pháp. Ở đây người lập di chúc đã không thể dự đoán được rằng di chúc mà họ đã lập ra lại có nhiều phiền phức đến vậy. Ý nguyện của người lập di chúc thì muốn di chúc họ lập ra phải được làm đúng như vậy. Tuy nhiên vì nhiều lí do khác nhau mà di chúc lập ra hoàn toàn tự nguyện nhưng không thể hợp pháp vì đã vi phạm nội dung của di chúc. Cũng có rất nhiều trường hợp người lập di chúc miệng lại có thể tưởng tượng ra rằng di chúc mà họ để lại có thể gây nhiều phiền phức cho người liên quan đến vậy, nhiều trường hợp nhất là ở vùng sâu vùng xa vì sự hiểu biết của pháp luật còn hạn chế, hoặc rất sơ sài. Một số trường hợp người hấp hối, nhất là những người già thường gọi con cháu đến dặn dò trước khi chết và vì không có điều kiện lập di chúc bằng văn bản nên những câu dặn dò đấy có thể coi là di chúc miệng. Nhưng vì nhiều lí do khác nhau nên những người có liên quan đến nội dung của di chúc lại là người ghi chép và là người làm chứng, vì vậy đã vi phạm điều kiện có hiệu lực của di chúc, và hình thức di chúc miệng trong trường hợp này bị hủy bỏ.
Trong cuộc sống thường ngày đã có không ít sự việc xảy ra như việc ép buộc viết di chúc
. Đây là trường hợp không khó để nhận ra sự bất hợp lí của nó, người viết di chúc thì tự tay viết và ký tên nhưng lạ