Quyền khiếu nại, tố cáo là những quyền dân chủ cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định và bảo đảm thực hiện, là công cụ pháp lý để công dân đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội, lợi ích hợp pháp của mình và của người khác. Khiếu nại, tố cáo là hình thức dân chủ trực tiếp để công dân tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội. Nhà nước ta quy định quyền và nghĩa vụ khiếu nại, tố cáo của công dân không chỉ ở Hiến pháp (Điều 74) mà còn quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ này trong một đạo luật - Luật khiếu nại, tố cáo (ban hành ngày 02/12/1998).
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước có nghĩa là bằng các cơ chế và hoạt động pháp lí làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trên thực tế và hoạt động của bộ máy nhà nước mà trước hết là hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước phải thực sự vì dân, khơi dậy trí tuệ và tinh thần, ý chí tự lực tự cường của nhân dân, đem lại những tiện ích và thủ tục thực hiện thực sự dễ hiểu, dễ làm và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân theo một trật tự nhất định. Trong đó, khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước là một trong những biện pháp quan trọng để bảo đảm, duy trì pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỉ luật trong quản lí nhà nước, là phương thức để bảo đảm quyền tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài “Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước” cho bài tập học kì môn Luật Hành chính của mình
15 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2586 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập lớn hành chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục:
A. Đặt vấn đề
B. Giải quyết vấn đề
I. Khái niệm về pháp chế xã hội chủ nghĩa
II. Khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo
1. Khiếu nại, tố cáo
a. Khiếu nại
b. Tố cáo
2. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo
III. Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
1. Khiếu nại, tố cáo là “cơ hội” để các cơ quan quản lí hành chính xem xét lại hoạt động quản lí đã được tiến hành trước đó của mình, từ đó mà các cơ quan Nhà nước có thể kịp thời phát hiện ra những vi phạm pháp luật cũng như những thiếu sót trong quá trình quản lí hành chính Nhà nước
2. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân là quyền cơ bản của ông dân được Hiến pháp quy định, là công cụ để nhân dân thực hiện dân chủ trực tiếp trong những trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức bị hành vi trái pháp luật xâm hại
3. Khiếu nại, tố cáo nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của các cá nhân, tổ chức khác
4. Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khắc phục những quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đã bị xâm hại
C. Kết thúc vấn đề
Danh mục tài liệu tham khảo:
Câu 11: Phân tích vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
Bài làm:
A. Đặt vấn đề
Quyền khiếu nại, tố cáo là những quyền dân chủ cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định và bảo đảm thực hiện, là công cụ pháp lý để công dân đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội, lợi ích hợp pháp của mình và của người khác. Khiếu nại, tố cáo là hình thức dân chủ trực tiếp để công dân tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội. Nhà nước ta quy định quyền và nghĩa vụ khiếu nại, tố cáo của công dân không chỉ ở Hiến pháp (Điều 74) mà còn quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ này trong một đạo luật - Luật khiếu nại, tố cáo (ban hành ngày 02/12/1998).
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước có nghĩa là bằng các cơ chế và hoạt động pháp lí làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trên thực tế và hoạt động của bộ máy nhà nước mà trước hết là hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước phải thực sự vì dân, khơi dậy trí tuệ và tinh thần, ý chí tự lực tự cường của nhân dân, đem lại những tiện ích và thủ tục thực hiện thực sự dễ hiểu, dễ làm và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân theo một trật tự nhất định. Trong đó, khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước là một trong những biện pháp quan trọng để bảo đảm, duy trì pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỉ luật trong quản lí nhà nước, là phương thức để bảo đảm quyền tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài “Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước” cho bài tập học kì môn Luật Hành chính của mình!
B. Giải quyết vấn đề
I. Khái niệm về pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp luật mà còn chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và con người.
Trong đời sống Nhà nước và đời sống xã hội, pháp chế có tư cách như là phương thức quản lí của Nhà nước đối với xã hội. Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Điều này khẳng định rằng pháp chế là một trong những phương thức quản lí của Nhà nước đối với xã hội, trong đó công cụ quản lí của các cơ quan nhà nước là bằng pháp luật và phải dựa theo pháp luật. Điều này còn yêu cầu: các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Đây là nội dung căn bản, nội hàm của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nếu không có sự chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật của các chủ thể pháp luật thì không có pháp chế.
Bên cạnh đó, Hiến pháp còn khẳng định phải: đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Có thể nói, quy định này trong Hiến pháp là thể hiện nguyên tắc quan trọng nhất về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trong chủ nghĩa xã hội. Thông qua pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thực hiện sự quản lí của mình đối với xã hội. Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật, nhưng chính Nhà nước và trước hết Nhà nước phải tôn trọng, chấp hành pháp luật, đặt mình dưới pháp luật. Như vậy, pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ chính trị - pháp lí, đòi hỏi mọi chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh (trong đó có Nhà nước) phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật một cách thường xuyên, liên tục, mọi vi phạm pháp luật đều phải được xử lí nghiêm minh. Pháp chế là hiện tượng chỉ có thể tồn tại trong một điều kiện nhất định và trong một chế độ chính trị nhất định của xã hội.
Tóm lại, pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ chính trị - pháp lý của đời sống nhà nước và đời sống xã hội, trong đó tồn tại một hệ thống pháp luật hoàn thiện về nội dung và hình thức, phản ánh đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đòi hỏi mọi chủ thể của pháp luật phải tự giác tuân thủ, nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật, có cơ chế hữu hiệu để kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, đấu tranh phòng, chống và xử lí nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật.
II. Khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo
1. Khiếu nại, tố cáo
a. Khiếu nại
Khái niệm về khiếu nại đã được thể hiện trong một số văn bản quy phạm pháp luật như: Pháp lệnh Quy định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tô cáo của công dân năm 1981, Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 v.v… Tuy nhiên, khái niệm khiếu nại chỉ được chính thức được ghi nhận đầy đủ trong Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998: “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức, hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình” (khoản 2 Điều 2). Như vậy, chúng ta thấy rằng khái niệm trên chỉ giới hạn những khiếu nại phát sinh trong lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước mà đối tượng khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Theo quy định tại khoản 10 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005 và năm 2006) thì “Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vân đề cụ thể trong hoạt động quản lí hành chính”.
Quyết định hành chính bao gồm quyết định chủ đạo (quyết định chính sách), quyết định quy phạm và quyết định cá biệt. Quyết định chủ đạo và quyết định quy phạm luôn thể hiện bằng hình thức văn bản do cơ quan hoặc người có thẩm quyền ban hành. Quyết định cá biệt chủ yếu được ban hành dưới hình thức văn bản. Bên cạnh đó, có một số quyết định cá biệt được ban hành dưới hình thức văn nói , kí hiệu… Như vậy, quyết định hành chính là đối tượng khiếu nại hành chính chỉ bao gồm các quyết định hành chính cá biệt được thể hiện thành văn bản. Quyết định chủ đạo và quyết định quy phạm không phải là đối tượng khiếu nại.
Theo quy định tại khoản 11 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005 và năm 2006) thì “Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật”.
Trong đó, công vụ và nhiệm vụ là hai khái niệm có phạm vi khác nhau. Công vụ là hoạt động mang tính nhà nước, nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước vì lợi ích xã hội, lợi ích nhà nước, lợi ích chính đáng của các tổ chức và cá nhân, được tiến hành thường xuyên, liên tục theo trật tự do pháp luật quy định trên cơ sở sử dụng quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước; hoạt động công vụ chủ yếu do đội ngũ công chức chuyên nghiệp thực hiện. Nếu công vụ là hoạt động mang tính thường xuyên, liên tục thì nhiệm vụ là công việc phải làm vì một mục đích nhất định trong một khoảng thời gian nhất định.
Cần lưu ý rằng, pháp luật hiện hành về khiếu nại và giải quyết khiếu nại định nghĩa quyết định hành chính, hành vi hành chính là quyết định hoặc hành vi của cơ quan hành chính nhà nước nhưng trên thực tế thì không chỉ cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước mới ban hành quyết định hành chính hay thực hiện quyết định hành chính. Các cơ quan nhà nước khác và những người có thẩm quyền quản lí trong các cơ quan đó cũng ban hành các quyết định hoặc thực hiện các hành vi thuộc loại này. Ở đây, theo quy định tại khoản 12 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005, 2006) thì “Quyết định kỉ luật là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình thức kỉ luật là khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lí của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức”.
b. Tố cáo
Tố cáo là một quyền chính trị cơ bản của công dân nên chế định này ngày càng được quy định đầy đủ, chi tiết và chặt chẽ đối với người tố cáo và cả người bị tố cáo. Mục đích của tố cáo là vạch rõ những sai trái của cơ quan Nhà nước, tổ chức và của cán bộ, công chức Nhà nước. Từ đó, công dân đòi hỏi Nhà nước phải áp dụng biện pháp giáo dục, trừng trị hợp lí, kịp thời, thậm chí cả những biện pháp nghiêm khắc góp phần loại trừ những hành vi trái pháp luật xâm hại lợi ích xã hội, lợi ích cá nhân và để những người bị tố cáo sửa chữa khuyết điểm của mình.
Tố cáo là việc công dân, theo thủ tục do Luật khiếu nại, tố cáo quy định, báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Theo khái niệm pháp lí này, mặc dù tố cáo và khiếu nại thường được quy định trong cùng một điều luật hay trong cùng một văn bản, nhưng chúng ta thấy rõ tố cáo có những điểm riêng biệt rất khác với khiếu nại về cả nội dung và cách thức giải quyết.
Về chủ thể, theo quy định ở Điều 2 và Điều 101 Luật khiếu nại, tố cáo thì chủ thể của khiếu nại là cơ quan Nhà nước, tổ chức, công dân, cá nhân và tổ chức nước ngoài trong khi chủ thể của tố cáo chỉ là cá nhân tức là công dân và người nước ngoài.
Về đối tượng, đối tượng của khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành chính mà người khiếu nại cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đối tượng của tố cáo là những hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Về mục đích, mục đích của người khiếu nại là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, còn mục đích của người tố cáo là nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể và công dân nói chung.
Về trách nhiệm pháp lí, người khiếu nại không phải chịu trách nhiệm khi khiếu nại không có căn cứ pháp lí, còn người tố cáo phải chịu trách nhiệm pháp lí khi cố tình tố cáo sai sự thật.
Khiếu nại, tố cáo còn khác nhau về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, phương thức giải quyết.
2. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo
Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo là một hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với hoạt động chấp hành và điều hành. Khi thực hiện hoạt động hoạt động chấp hành và điều hành, các cơ quan hành chính nhà nước ban hành các quyết định quản lí, thực hiện các hành vi hành chính.
Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005, 2006) đã quy định khái niệm “giải quyết khiếu nại” và “giải quyết tố cáo”. Theo đó, “Giải quyết khiếu nại là việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết của người giải quyết khiếu nại” (Khoản 13 Điều 2). Như vậy, giải quyết khiếu nại gồm ba giai đoạn: xác minh tình tiết, nội dung vụ việc khiếu nại; kết luận về tính đúng sai, cơ sở pháp lí của nội dung khiếu nại, của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại; ra quyết định giải quyết khiếu nại.
“Giải quyết tố cáo là việc xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc quyết định xử lý của người giải quyết tố cáo” (Khoản 14 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005 và năm 2006)). Giải quyết tố cáo cũng bao gồm ba giai đoạn: kiểm tra, xác minh nội dung tố cáo; kết luận về tính đúng đắn, khách quan của nội dung tố cáo; xử lí hành vi vi phạm pháp luật của người bị tố cáo và giải quyết các vấn đề có liên quan đến nội dung tố cáo theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào quy định của Luật khiếu nại, tố cáo và đặc trưng hoạt động quản lí hành chính nhà nước, có thể đưa ra khái niệm giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước như sau:
Giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước là hoạt động kiểm tra, xác minh, kết luận về tính hợp pháp và tính hợp lí của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước để có biện pháp giải quyết theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và lợi ích chung của Nhà nước và xã hội.
Giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước là việc kiểm tra, xác minh, kết luận về tính hợp pháp của hành vi bị tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước để có biện pháp giải quyết theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Ta thấy, hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo là hoạt động bảo đảm pháp chế và kỉ luật trong quản lí hành chính Nhà nước, bảo vệ lợi ích Nhà nước, xã hội, các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Do đó, hoạt động này phải được tiến hành trên cơ sở pháp luật và phải tuân thủ, chấp hành, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật khiếu nại, tố cáo và pháp luật khác có liên quan.
III. Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
1. Khiếu nại, tố cáo là “cơ hội” để các cơ quan quản lí hành chính xem xét lại hoạt động quản lí đã được tiến hành trước đó của mình, từ đó mà các cơ quan Nhà nước có thể kịp thời phát hiện ra những vi phạm pháp luật cũng như những thiếu sót trong quá trình quản lí hành chính Nhà nước
Không phải trong mọi trường hợp cơ quan, người có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại đều cố tình vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức. Nếu người quản lí không thu thập đầy đủ thông tin, không cập nhật các quy định của pháp luật hiện hành hoặc do chủ quan mà đã ban hành quyết định hoặc có hành vi hành chính trái pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, những thiếu sót này nếu được phát hiện ra một cách nhanh chóng thông qua việc giải quyết khiếu nại thì việc tổ chức khắc phục những thiếu sót này cũng hoàn toàn đơn giản, nhanh chóng và thuận tiện. Kết quả là, cả người khiếu nại, người bị khiếu nại và người giải quyết khiếu nại sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí và những phiền toái khác có thể nảy sinh khi việc giải quyết khiếu nại và thi hành quyết định khiếu nại hành chính bị chuyển qua chuyển lại giữa nhiều cơ quan khác nhau.
Mặt khác, thông qua việc giải quyết khiếu nại của cá nhân, tổ chức, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị không chỉ kiểm tra xem xét lại một hoạt động quản lí hành chính cụ thể đã được thực hiện (hoạt động quản lí bị khiếu nại), mà còn kiểm tra xem xét toàn bộ hoạt động của cán bộ, công chức hoặc một lĩnh vực quản lí thuộc thẩm quyền của cơ quan mình, nhờ đó kịp thời phát hiện và khắc phục những thiếu sót, bất cập nhằm phục vụ nhân dân tốt hơn.
Gần đây, dư luận đang xôn xao vụ việc một em bé 14 tuổi ở Cà Mau bị hành hạ một cách dã man như thời Trung cổ trong 2 năm trời, tỉ lệ thương tật là 67%. Nếu như không có sự tố giác của người dân quanh đó thì chắc hẳn vụ việc này chưa được đưa ra ánh sáng. Như vậy, thông qua việc tố cáo của người dân, các cơ quan hành chính phát hiện ra hành vi vi phạm pháp luật và đưa ra hướng giải quyết đối với vụ việc liên quan đến hành vi đó. Trước vụ việc này, câu hỏi đặt ra là “Tại sao người dân ở đó không tố cáo hành vi này sớm hơn?” và “Nếu như công tác bán địa bàn, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở địa phương này (Đầm Dơi, Cà Mau) được tiến hành thường xuyên hơn thì có phải những vụ việc đau lòng như thế này sẽ không xảy ra không?”. Câu hỏi này dành cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền ở Cà Mau xem xét, giải quyết.
Thông qua khiếu nại, tố cáo của công dân mà các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát hiện ra nhiều hành vi vi phạm pháp luật như tham nhũng, lãng phí, vi phạm dân chủ… được làm sáng tỏ, góp phần làm cho bộ máy nhà nước thêm trong sạch, củng cố lòng tin của nhân dân lao động đối với Đảng và Nhà nước ta.
Một trong những nhân tố quan trọng để làm chuyển biến tích cực tình hình khiếu nại, tố cáo và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo qua đó duy trì, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là các cơ quan hành chính nhà nước đã thực hiện khá tốt công tác xử lí vi phạm không chỉ đối với những cán bộ, công chức có thẩm quyền, trách nhiệm ở các cơ quan hành chính nhà nước cấp cơ sở, mà còn cả đối với người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh. Nhìn chung, các cơ quan hành chính nhà nước đã phát hiện kịp thời, có biện pháp và xử lí đối với những vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo. Đây là một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Theo Báo cáo số 54/TTNN ngày 27/1/2001 của Thanh tra Nhà nước về kết quả hoạt động của các Đoàn Công tác liên ngành của Trung ương, các Đoàn Công tác liên ngành đã kiểm tra, đôn đốc, cùng các địa phương giải quyết các vụ khiếu kiện đông người, phức tạp, kéo dài ở 21 tỉnh, thành phố. Với tinh thần dân chủ, công khai, thẳng thắn và sát thực tế, các đoàn đã tiếp, đối thoại với hàng ngàn lượt công dân khiếu kiện, đã nhận trên 11.000 đơn thư khiếu kiện của công dân gửi đến các đoàn, đã trực tiếp kiểm tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của lãnh đạo 21 tỉnh, thành phố và trên 60 quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh; kiểm tra, xem xét, kết luận để giải quyết hoặc chỉ đạo các tỉnh, thành phố giải quyết 172 vụ việc phức tạp, đông người, tồn đọng kéo dài thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ hoặc của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố nhưng lại có nhiều ý kiến khác nhau. Qua kiểm tra cho thấy phần lớn các vụ việc dân khiếu nại đúng, các Đoàn Công tác đã kết luận, xử lí tại chỗ, yêu cầu Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố giải quyết, khôi phục quyền lợi chính đáng cho công dân theo quy định của pháp luật; một số vụ việc có đúng có sai, một số vụ khiếu kiện không có căn cứ pháp luật. Bước đầu đã kiến nghị xử lí một số cán bộ ở các địa phương có sai phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật hoặc thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Quần chúng nhân dân ở các địa phương đều hoan nghênh và rất quan tâm kết quả hoạt động của các Đoàn Công tác.