Theo quy định tại Khoản 3, Điều 8 BLHS năm 1999, tội phạm được phân loại dựa vào mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, bao gồm tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
“Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù. Tội phạm nghiên trọng là tội pham mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
9 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2965 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập lớn học kì Luật Hình sự 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
CĂN CỨ VÀO KHOẢN 3 ĐIỀU 8 BLHS, HÃY PHÂN LOẠI TỘI PHẠM VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI.
F Theo quy định tại Khoản 3, Điều 8 BLHS năm 1999, tội phạm được phân loại dựa vào mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, bao gồm tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
“Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù. Tội phạm nghiên trọng là tội pham mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
F Điều 93 BLHS năm 1999 quy định:
Tội giết người:
“1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đếm hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết nhiều người;
b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Để thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn;
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 điều này, thì bị phạt tù từ bảy đến mười lăm năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm”.
F Đối chiếu tội giết người được quy định từ Khoản 1 đến Khoản 3 Điều 93 BLHS năm 1999 với Khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999:
Khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là đến hai mươi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình, do đó, tội phạm quy định tại Khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng.
Khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là đến mười lăm năm tù, do đó, tội phạm quy định tại Khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999 thuộc loại tội rất nghiêm trọng.
Khoản 3 Điều 93 BLHS là quy định về hình phạt bổ sung nên không phân loại tội phạm.
HÀNH VI PHẠM TỘI CỦA A THUỘC GIAI ĐOẠN PHẠM TỘI NÀO? GIẢI THÍCH RÕ TẠI SAO.
TRẢ LỜI: Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt, cụ thể là giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
GIẢI THÍCH:
F Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó.
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thoả mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.
F Trong trường hợp này, A không những đã tạo ra điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm là rủ B đi chơi mà còn có hành vi đâm B ba nhát, tức là A đã thực hiện tội phạm. Như vậy, hành vi của A không thuộc giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Do B được phát hiện và đưa đi cấp cứu kịp thời, hậu quả chết người chưa xảy ra, mà tội giết người là tội có cấu thành tội phạm vật chất, nên hành vi của A cũng không thuộc giai đoạn tội phạm hoàn thành.
Ta xét các dấu hiệu xác định trường hợp phạm tội chưa đạt:
Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm: A đã thực hiện hành vi đâm B ba nhát. Đây là hành vi đã được mô tả trong cấu thành tội phạm tội giết người (Điều 93 BLHS năm 1999).
Dấu hiệu thứ hai: Người phạm tội không thực hiện được tội phạm đến cùng, nghĩa là hành vi của họ chưa thoả mãn hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm: A đã đâm B nhưng B không chết; tức là chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa gây ra hậu quả của tội phạm.
Dấu hiệu thứ ba: Người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn muốn tội phạm hoàn thành: A muốn giết B, tưởng B đã chết nên mới bỏ đi, nhưng việc B được phát hiện và cứu sống kịp thời nằm ngoài ý muốn của A.
Hành vi phạm tội của A thoả mãn cả ba dấu hiệu trên, do đó có thể kết luận hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt.
F Căn cứ vào thái độ tâm lí của người phạm tội đối với hành vi mà họ đã thực hiện, khoa học pháp lý còn chia phạm tội chưa đạt thành hai loại: Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội vì nguyên nhân khách quan, chưa thực hiện hết hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả không xảy ra.
Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là người phạm tội đã thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả, nhưng vì nguyên nhân khách quan hậu quả đó không xảy ra.
Trong trường hợp này, A đâm B ba nhát và tưởng B đã chết nên mới bỏ đi, nhưng B đã được phát hiện và đưa đi cấp cứu kịp thời nên còn sống. A đã hành động như ý muốn và tin hậu quả sẽ xảy ra là cái chết của B, việc B còn sống là do nguyên nhân khách quan, nằm ngoài ý muốn của A. Bởi vậy, hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
HÃY CHỈ RA ĐỐI TƯỢNG TÁC ĐỘNG CỦA TỘI PHẠM VÀ CÔNG CỤ PHẠM TỘI TRONG VỤ ÁN.
F Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Trong tình huống trên, khách thể của tội phạm giết người được luật hình sự bảo vệ chính là quyền bất khả xâm phạm đến tính mạng của con người. Do ghen tuông, A đã rủ B đi chơi, đi đến chỗ vắng, A rút dao đâm B ba nhát. Do đó, đối tượng tác động của tội giết người trong vụ án này chính là B.
Phương tiện phạm tội là những đối tượng được người phạm tội sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội của mình. Công cụ phạm tội là dạng cụ thể của
phương tiện phạm tội.
Trong tình huống này, A dùng dao đâm B, do vậy, con dao A sử dụng chính là công cụ phạm tội để gây thiệt hại cho khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ của con người, cụ thể là tính mạng, sức khoẻ của B.
GIẢ SỬ A MỚI ĐÂM B MỘT NHÁT, THẤY B BỊ THƯƠNG, MÁU RA NHIỀU, A SỢ QUÁ BỎ ĐI KHÔNG TIẾP TỤC ĐÂM B ĐẾN CHẾT. B BỊ THƯƠNG TÍCH VỚI TỶ LỆ THƯƠNG TẬT LÀ 21%. A CÓ PHẢI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ KHÔNG? GIẢI THÍCH RÕ TẠI SAO.
TRẢ LỜI: Trong trường hợp này, A không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định phạm là tội giết người, nhưng do hành vi của A cấu thành tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” nên A phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này theo Khoản 2 Điều 104 BLHS.
GIẢI THÍCH:
F Nếu trong vụ án, A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá tự ý bỏ đi mà không đâm B đến chết, thì hành vi của A thuộc trường hợp “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”. Vì hành vi của A thỏa mãn các dấu hiệu tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội:
Việc chấm dứt không tiếp tục đâm B khi tội phạm đang ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành: A mới đâm B một nhát, do sợ hãi nên A bỏ đi. A chưa thực hiện hết các hành vi khách quan cho là cần thiết để gây ra hậu quả chết người cho B và kết quả là B không chết, chỉ bị thương.
Việc chấm dứt không thực hiện tiếp việc đâm B là do A hoàn toàn tự nguyện, dứt khoát.
F Điều 19 BLHS quy định:
“Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội
phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm
hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này”.
F Từ đó, ta xác định, trong tình huống này, A không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định phạm là tội giết người. Tuy nhiên, để kết luận A có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội khác hay không cần xét các yếu tố cấu thành tội phạm trong hành vi của A.
Về mặt khách thể của tội phạm, hành vi của A xâm hại trực tiếp đến quyền bất khả xâm phạm về tính mạng của B.
Về mặt chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm là A, người có năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức được hành vi của mình và có khả năng chịu trách nhiệm hình sự.
Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: Hành vi đâm B của A, hậu quả là thương tích của B với tỉ lệ thương tật là 21%, hành vi đâm B của A là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc A bị thương tật 21%. Công cụ phạm tội là con dao A dùng để đâm B (là hung khí nguy hiểm)…
Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi cố ý trực tiếp của A, mục đích muốn giết B của A và động cơ phạm tội là do ghen tuông với B.
Do đó, hành vi của A cấu thành tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” được quy định tại Khoản 2 Điều 104 BLHS:
“2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.
Vì A dùng dao là hung khí nguy hiểm (hung khí nguy hiểm được hiểu là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội, có tính nguy hiểm đáng kể cho người bị xâm hại và cho xã hội – đó là những vật dụng có sẵn trong đời sống như dao, kéo, kiếm, búa, đinh, gậy gộc...) nên thuộc điểm a Khoản 1 Điều 104 BLHS.
Vậy trong trường hợp này, A chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” theo Khoản 2 Điều 104 BLHS.
GIẢ SỬ A ĐÂM B 3 NHÁT, TƯỞNG B ĐÃ CHẾT, A BỎ ĐI, NHƯNG DO ĐƯỢC PHÁT HIỆN VÀ CẤP CỨU KỊP THỜI, B ĐÃ ĐƯỢC CỨU SỐNG. TÒA ÁN ÁP DỤNG KHOẢN 2 ĐIỀU 93 BLHS TUYÊN HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI A LÀ 13 NĂM TÙ THÌ HÌNH PHẠT TÒA ÁN QUYẾT ĐỊNH ĐỐI VỚI A CÓ ĐÚNG KHÔNG? GIẢI THÍCH RÕ TẠI SAO.
TRẢ LỜI: Trong tình huống trên, Toà án áp dụng Khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt Toà án quyết định đối với A là sai.
GIẢI THÍCH:
F Khoản 2 Điều 93 BLHS quy định:
“Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 điều này, thì bị phạt tù từ bảy đến mười lăm năm”.
Tuy nhiên trong trường hợp này, hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành (đã trình bày ở yêu cầu thứ 2).
F Mà theo Khoản 3 Điều 52 BLHS thì:
“Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định”.
F Đối chiếu với Khoản 2 Điều 93 BLHS, mức phạt tù cao nhất là mười lăm năm nên hình phạt mà Toà án quyết định đối với A không được quá ba phần tư của mức mười lăm năm, tức không được quá 11 năm 3 tháng. Vậy, nếu Toà án áp dụng Khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt Toà án quyết định đối với A là sai, vì nó vượt quá mức ba phần tư hình phạt mà Khoản 2 điều 93 BLHS quy định.
GIẢ SỬ A LÀ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI ĐANG LÀ NHÂN VIÊN LÀM THUÊ CHO MỘT CÔNG TY LIÊN DOANH Ở HÀ NỘI. HÀNH VI NÓI TRÊN CỦA A XẢY RA Ở HÀ NỘI THÌ CÓ BỊ XỬ LÝ THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM KHÔNG? GIẢI THÍCH RÕ TẠI SAO.
TRẢ LỜI: Hành vi phạm tội của A xảy ra ở Hà Nội hoàn toàn bị xử lý theo pháp luật Việt Nam.
GIẢI THÍCH:
F Điều 5 BLHS năm 1999 quy định:
“Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
1. Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”.
Như vậy, theo nguyên tắc lãnh thổ, luật hình sự Việt Nam có hiệu lực tuyệt đối với mọi hành vi phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam dù người thực hiện tội phạm là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay người không quốc tịch. Nguyên tắc lãnh thổ chỉ có biệt lệ đối với người nước ngoài được hưởng quyền đặc miễn tư pháp theo luật quốc tế. Đó là những người đứng đầu nhà nước, các thành viên của chính phủ, những người đứng đầu các cơ quan ngoại giao, các thành viên của đoàn ngoại giao như đại sứ, tham tán đại sứ, bí thư, tuỳ viên… Vợ hoặc chồng, con chưa thành niên của những người kể trên cũng được hưởng quyền đặc miễn tư pháp.
F A là người nước ngoài, đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội. Do đó, A không thuộc diện hưởng quyền đặc miễn tư pháp nói trên. Vậy hành vi phạm tội của A xảy ra ở Hà Nội sẽ bị xử lý theo pháp luật Việt Nam. Cụ thể, A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo BLHS nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009).
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nxb. Lao động, Hà Nội, 2010.
Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam năm 1993.
Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập 1, Nxb. CAND, Hà Nội, 2010.
Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, phần chung, Nxb. TPHCM, 2006.
Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, tập II, bình luận chuyên sâu, Nxb. TPHCM, 2006.
Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 1999, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001.
Trường đại học Luật Hà Nội, Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb. CAND, Hà Nội, 2001.
Dương Tuyết Miên, Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb. CAND, Hà Nội, 2004.
Nguyễn Ngọc Hoà, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007.
Đỗ Đức Hồng Hà, Bài tập Luật hình sự và Tố tụng hình sự, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2009.