Bài tập lớn luật dân sự 1

Di chúc đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, với đủ các hình thức khác nhau.Ngày nay, mỗi Nhà nước, mỗi hệ thống pháp luật trên thế giới lại có những qui định khác biệt về cùng một vấn đề của pháp luật dân sự là “hình thức của di chúc”. Hình thức của di chúc là phương thức biểu hiện ý chí của người lập di chúc; là căn cứ pháp lí làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc. Vì vậy, di chúc phải được lập dưới một hình thức nhất định; mặt khác, hình thức của di chúc lại rất đa dạng và phong phú, tùy thuộc vào qui định của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, thì hầu hết các nước trên thế giới trong đó có cả Việt Nam chỉ công nhận hai hình thức chính của di chúc đó là chúc thư và chúc ngôn hay còn gọi là di chúc bằng văn bản và di chúc miệng.

doc19 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3300 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập lớn luật dân sự 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Lời nói đầu Di chúc đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, với đủ các hình thức khác nhau.Ngày nay, mỗi Nhà nước, mỗi hệ thống pháp luật trên thế giới lại có những qui định khác biệt về cùng một vấn đề của pháp luật dân sự là “hình thức của di chúc”. Hình thức của di chúc là phương thức biểu hiện ý chí của người lập di chúc; là căn cứ pháp lí làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc. Vì vậy, di chúc phải được lập dưới một hình thức nhất định; mặt khác, hình thức của di chúc lại rất đa dạng và phong phú, tùy thuộc vào qui định của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, thì hầu hết các nước trên thế giới trong đó có cả Việt Nam chỉ công nhận hai hình thức chính của di chúc đó là chúc thư và chúc ngôn hay còn gọi là di chúc bằng văn bản và di chúc miệng. B. Nội dung Điều 646 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Di chúc do cá nhân còn sống tự nguyện lập ra với mục đích dịch chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người còn sống khác. Di chúc phải dựa vào ý chí, tình cảm của cá nhân người lập di chúc mà không phải bất cứ chủ thể nào khác và chỉ có hiệu lực sau khi người đó chết. Do đó, người lập di chúc có tính độc lập, tự định đoạt khi lập di chúc và cũng chính vì vậy mà di chúc được coi là một hành vi pháp lý đơn phương, phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng. Hình thức của di chúc cũng cần phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật. Hình thức di chúc là sự thể hiện ý chí của người để lại tài sản ra bên ngoài thế giới khách quan, là sự chứa đựng nội dung của di chúc theo một trình tự kết cấu nhất định. Vì vậy hình thức của di chúc là một phần rất cơ bản và quan trọng trong việc thừa kế theo di chúc, nếu hình thức của di chúc không tuân thủ đúng những điều kiện có hiệu lực được quy định trong luật thì di chúc được xem là vô hiệu và không có bất kì một giá trị nào về mặt pháp lý. Bởi lý do đó, việc nghiên cứu về hình thức của di chúc là rất quan trọng, sẽ giúp cá nhân hiểu rõ và có thể chọn cho mình một hình thức để lại di chúc phù hợp, nhờ đó thực hiện được đầy đủ quyền sở hữu, định đoạt đối với tài sản của mình ngay cả khi đã chết. Điều 649 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về hình thức của di chúc: “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình”. Theo đó thì có hai hình thức di chúc được công nhận trong luật dân sự Việt Nam là hình thức di chúc văn bản hay còn gọi là di chúc viết và hình thức di chúc miệng. Có thể hiểu đơn giản hình thức văn bản là loại di chúc được thể hiện dưới dạng chữ viết ( viết tay, đánh máy, in ) có chứng nhận hoặc không có chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hình thức di chúc miệng là toàn bộ ý chí của người lập di chúc thể hiện bằng lời nói. I. Hình thức di chúc miệng: 1. Những qui định của pháp luật: Di chúc miệng là một trong hai hình thức di chúc được pháp luật dân sự nước ta ghi nhận trong bộ luật dân sự năm 2005. Bộ luật dân sự Việt Nam qui định về di chúc miệng tại Điều 651 và tại khoản 5 Điều 652: “1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. 2. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc miệng còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ”. (Điều 651. BLDS) “Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng kí tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.” (Khoản 5. Điều 652. BLDS) Như vậy, quyền lập di chúc miệng của công dân chỉ phát sinh trong những trường hợp cực kì đặc biệt theo qui định của pháp luật. Trường hợp đặc biệt đó được pháp luật qui định là: bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản .Tính mạng một người bị đe doạ bởi cái chết ở đây có thể hiểu là một người bị thương nặng do ốm đau, tai nạn, gần đến lúc hấp hối… Những nguyên khác có thể là do người lập di chúc cụt tay, không biết chữ, bị mù hai mắt… Do đó di chúc miệng có thể được coi là lời trăn trối cuối cùng của người chết về việc để lại di sản, phân chia cho những người còn sống thừa kế. Có thể thấy di chúc miệng được công nhận và có hiệu lực trong những trường hợp đặc biệt phù hợp với phong tục tập quán nước ta. Do vậy, nếu một người bị cái chết đe dọa nhưng họ vẫn có thể lập di chúc bằng văn bản mà người đó lại di chúc miệng thì di chúc miệng đó không được pháp luật công nhận (không có giá trị pháp lí). Di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng này ghi chép lại, cùng kí tên hoặc điểm chỉ và phải đem đi công chứng hoặc chứng thực trong thời hạn năm ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng. Như vậy, người làm chứng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng đối với di chúc miệng; có thể nói người làm chứng có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực cũng như tính hợp pháp của di chúc miệng. Số lượng người làm chứng ít nhất phải là hai người. Ngoài ra, những người làm chứng phải thực hiện các hành vi như: ghi chép lại, cùng kí tên hoặc điểm chỉ, đem đi công chứng hoặc chứng thực sau khi được nghe di chúc miệng. Di chúc miệng sẽ không hợp pháp nếu người lập di chúc miệng bằng cử trỉ, động tác, mấp máy môi hoặc những động tác không có ý nghĩa thể hiện là không còn minh mẫn, sáng suốt. Trên thực tế, có nhiều trường hợp người sắp chết chỉ nói lên ý chí của mình về việc phân chia tài sản trước nhiều người như những lời dặn dò, căn dặn nhưng không ai ghi chép lại. Những lời căn dặn đó về mặt pháp lý hoàn toàn không được coi là di chúc miệng. Do là một hình thức di chúc đặc biệt nên pháp luật qui định về hình thức di chúc miệng với thủ tục hết sức chặt chẽ. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng, nếu người di chúc miệng còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì mặc nhiên di chúc miệng bị hủy bỏ (coi như không có di chúc miệng). Như vậy, vấn đề về thời gian, vấn đề về nhận thức cũng như vấn đề về trạng thái thể chất, trạng thái tinh thần của người di chúc miệng sau khi có di chúc miệng là những vấn đề quan trọng, nó cũng quyết định đến hiệu lực của di chúc miệng. Xét về mặt sinh học: nếu người di chúc miệng chỉ sống được dưới ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng thì di chúc miệng có giá trị (nếu đã thỏa mãn các điều kiện, các qui định khác của pháp luật). Sau ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc miệng còn sống thì giá trị cũng như hiệu lực của di chúc miệng phụ thuộc vào khả năng nhận thức của người di chúc miệng; cụ thể, có các khả năng sau có thể xảy ra: - Nếu người di chúc miệng còn minh mẫn nhưng không sáng suốt thì di chúc miệng không mặc nhiên bị hủy bỏ. - Nếu người di chúc miệng sáng suốt nhưng không minh mẫn thì di chúc miệng cũng không mặc nhiên bị hủy bỏ. - Nếu người di chúc miệng còn minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng bị hủy bỏ. Tóm lại, theo các qui định của Bộ luật dân sự 2005 thì di chúc miệng được coi là hợp pháp khi đáp ứng và đảm bảo được đầy đủ các điều kiện sau: - Di chúc miệng chỉ được lập trong tình trạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản được. - Người di chúc miệng phải thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng. - Ngay sau khi nghe người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì những người làm chứng phải ghi chép lại, kí tên hoặc điểm chỉ và đem đi công chứng hoặc chứng thực trong thời hạn năm ngày kể từ có di chúc miệng. - Di chúc miệng chỉ có giá trị khi mà người di chúc miệng sống không quá được ba tháng kể từ ngày di chúc miệng hoặc người di chúc miệng sống trên ba tháng nhưng không còn minh mẫn sáng suốt. 2. Nhận xét: Sau khi đã phân tích những qui định chung của pháp luật về hình thức di chúc miệng ở trên thì sau đây là một vài suy nghĩ của người viết về vấn đề này: Khoản 1 Điều 651 BLDS có qui định “1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.” Theo đó, một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật thì qui định như vậy là quá hiển nhiên và không có gì phải bàn cãi thế nhưng về qui định một người bị cái chết đe dọa do “các nguyên nhân khác” thì có rất nhiều cách hiểu và cũng chưa có hướng dẫn cụ thể của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tại khoản 5 Điều 652 có qui định: “Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng kí tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.” Vậy, “ngay sau đó” được qui định tại Điều luật này sẽ được hiểu như thế nào \? Vấn đề này cũng chưa được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền qui định. Tuy nhiên, theo cách hiểu chung thì “ngay sau đó” được hiểu là khoảng thời gian rất gần; thế nhưng, khoảng thời gian đó là gần như thế nào và có giới hạn là bao nhiêu thì cũng cần phải có những hướng dẫn, những qui định cụ thể của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Ngoài ra, theo các qui định trong bộ luật dân sự 2005 thì có nhiều cách hiểu liên quan đến việc: “Khi di chúc miệng đã được lập đúng theo các qui định của Bộ luật dân sự thì di chúc đó có được coi là di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực hay không?”. Có quan điểm cho rằng di chúc miệng và di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực là như nhau bởi lẽ, xét về mặt nội dung thì di chúc miệng và di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực đều thể hiện quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản nhằm chuyển tài sản cho người khác sau khi chết; đều thể hiện ý chí tự nguyện của người có di chúc. Xét về mặt hình thức: trong số các loại di chúc bằng văn bản chỉ có di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì người lập di chúc mới phải tự tay viết di chúc; còn các loại di chúc bằng văn bản khác thì pháp luật không bắt buộc điều này. Di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực chỉ khác di chúc miệng ở chỗ là đối với di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực thì người lập di chúc phải kí vào di chúc còn di chúc miệng thì người di chúc miệng không thể kí vào di chúc bởi nguyên nhân khách quan (bị cái chết đe dọa…). Hơn thế nữa, di chúc miệng đã được cơ quan công chứng chứng thực nên độ tin cậy, bảo đảm của nó cũng tương đương như di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, cách hiểu trên là chưa hoàn toàn hợp lí với tinh thần của điều luật này nói riêng và tinh thần chung của Bộ luật dân sự 2005. Bản chất của vấn đề ở đây chính là di chúc miệng là một loại di chúc đặc biệt, chỉ ra đời trong những trường hợp cụ thể theo qui định của pháp luật. Chính vì vậy, bản thân nó có những qui định riêng hết sức chặt chẽ để nhằm phân biệt với các hình thức khác của di chúc. Hơn thế nữa, việc pháp luật qui định di chúc miệng phải được công chứng, chứng thực không có nghĩa là di chúc miệng và di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực có hình thức như nhau; mà việc pháp luật qui định di chúc miệng phải được công chứng, chứng thực chỉ nhằm mục đích xác nhận sự kiện pháp lí: “có di chúc miệng” mà thôi. Ngoài ra, đối với di chúc bằng văn bản thì người lập di chúc phải đọc di chúc hoặc được nghe đọc di chúc (nếu không biết chữ) và phải kí tên hoặc điểm chỉ vào di chúc. Còn đối với di chúc miệng thì pháp luật không qui định người di chúc miệng phải đọc hay nghe đọc di chúc. Chính vì thế độ tin cậy, đảm bảo thể hiện đúng ý chí của người lập di chúc bằng văn bản cao hơn đối với di chúc miệng. Thêm vào đó, di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực không bị mất hiệu lực bởi thời gian, cũng như nhận thức hay trạng thái thể chất, tinh thần của người lập di chúc kể từ thời điểm lập di chúc. Còn yếu tố thời gian, nhận thức và trạng thái thể chất, tinh thần của người di chúc miệng lại có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực, giá trị của di chúc miệng như đã phân tích ở trên. Việc nhận thức đúng và hiểu đúng các qui định về di chúc miệng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong cả lí luận và thực tiễn bởi vì nó liên quan đến việc đánh giá hiệu lực của di chúc để từ đó làm cơ sở cho việc giải quyết, phân chia di sản thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật. Chính vì vậy, cần có sự phân biệt rõ, tránh đồng nhất giữa di chúc miệng và di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực như quan điểm đầu tiên. Một điểm cần phải quan tâm nữa, đó chính là Bộ luật dân sự 2005 không qui định cụ thể về phạm vi đối tượng được đem di chúc miệng đến cơ quan công chứng, chứng thực. Phải chăng khi pháp luật không có qui định thì bất cứ người nào cũng có thể đem di chúc miệng đi công chứng, chứng thực? Mặt khác, Bộ luật dân sự 2005 chỉ mới qui định về hình thức của di chúc miệng mà chưa qui định cụ thể về mặt nội dung của di chúc miệng phải thể hiện như thế nào. Hiện nay, Bộ luật dân sự chỉ mới qui định về nội dung của di chúc bằng văn bản tại điều 653 và có thể nói những qui định này là khá chặt chẽ và cần thiết. Trong quá trình đi vào cuộc sống thì những qui định đó đã là những cơ sở pháp lí quan trọng góp phần cho việc xác định đúng người lập di chúc, người được thừa kế theo di chúc,… Vì vậy để đảm bảo thể hiện trung thực, đúng ý chí của người để lại di sản đồng thời để di chúc miệng được rõ ràng, tránh những cách hiểu khác nhau dẫn tới những tranh chấp không đáng có thì yêu cầu cấp thiết là phải có những qui định cụ thể về mặt nội dung của di chúc miệng hay chí ít thì cũng phải có thêm một vài dòng để qui định về nội dung của di chúc miệng khi được những người làm chứng ghi chép lại phải đảm bảo các qui định về nội dung như di chúc bằng văn bản được qui định tại điều 653 của Bộ luật này. II. Hình thức di chúc bằng văn bản: Là hình thức di chúc được thể hiện dưới dạng chữ viết (viết tay, đánh máy, in) có chứng nhận hoặc không có chứng nhận của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Hình thức di chúc bằng văn bản bao gồm các loại sau: Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng (Điều 655 BLDS). Di chúc bằng văn bản có người làm chứng (Điều 656 BLDS). Di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực (Điều 657 BLDS). Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: Đây là một trong các loại di chúc bằng văn bản được pháp luật dân sự nước ta công nhận. Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 qui định về hình thức di chúc bằng văn bản không có người làm chứng tại Điều 655: “Người lập di chúc phải tự tay viết và kí vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo qui định tại Điều 653 của Bộ luật này”. So với các bộ luật dân sự khác trên thế giới, Bộ luật dân sự Việt Nam cũng là một trong số các bộ luật có các qui định và công nhận hình thức di chúc bằng văn bản không có người làm chứng. Có lẽ, các nhà làm luật của nước ta đã dự liệu trước được rằng: vì thiếu những điều kiện khách quan hoặc các điều kiện chủ quan khác mà công dân không thể lập được di chúc bằng văn bản có chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Hoặc là trên thực tế, có rất nhiều trường hợp do người lập di chúc không am hiểu pháp luật hay có nhiều lí do khác nhau mà họ không thể đến cơ quan công chứng, Ủy ban nhân dân để làm thủ tục chứng nhận. Cho nên pháp luật vẫn công nhận việc họ lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng là hợp pháp, nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện khác mà pháp luật qui định. Ví dụ: người lập di chúc phải có năng lực chủ thể, người lập di chúc tự nguyện, nội dung và hình thức của di chúc không trái với qui định pháp luật cũng như đạo đức xã hội. Bởi các lí do như trên nên việc pháp luật có những qui định hết sức chặt chẽ và khắt khe đối với hình thức di chúc bằng văn bản không có người làm chứng là chuyện hết sức dễ hiểu. Đối với hình thức di chúc này thì pháp luật qui định rằng: “người lập di chúc phải tự tay viết và kí vào bản di chúc”. Đây là một qui định hết sức cô đọng, gọn nhẹ mà lại bao hàm đầy đủ những nội dung cần thiết. Do di chúc này là loại di chúc không có người làm chứng nên yêu cầu đầu tiên là phải xác định xem di chúc đó có đúng, có chính xác là di chúc của người chết để lại hay không? Như vậy, việc xác định ai người lập ra di chúc này sẽ phải dựa trên cơ sở nào? Pháp luật đã dự liệu, đã đưa ra một cơ sở duy nhất để xác định, đó chính là “chữ viết” và “chữ kí” của người để lại di chúc. Có thể xem “chữ viết, chữ kí” của người để lại di chúc là các dấu hiệu nhân thân quan trọng còn lại, làm cơ sở cho việc xác định người lập ra di chúc. Theo đó, những ai muốn để lại di chúc bằng văn bản không có người làm chứng mà lại không tự tay viết hay đánh máy thì bản di chúc đó không có giá trị và không được pháp luật công nhận. Như đã trình bày ở trên thì “chữ viết và chữ kí” là cơ sở duy nhất còn sót lại, là dấu hiệu nhân thân quan trọng cho việc xác định người lập ra di chúc; bản di chúc viết tay đó sẽ được đem ra đối chiếu, so sánh với chữ viết trong các tài liệu khác của người để lại di chúc, như vậy sẽ dễ dàng trong việc xác định chủ nhân của di chúc. Ngoài ra, một bản di chúc không có người làm chứng muốn hợp pháp và có giá trị thì phải tuân theo qui định tại Điều 653 của Bộ luật dân sự. Đó chính là các qui định về nội dung của di chúc bằng văn bản – di chúc phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc; họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản…; di sản và nơi có di sản; chỉ định nghĩa vụ, nội dung nghĩa vụ; di chúc không được viết tắt, kí hiệu…vv. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 qui định về di chúc bằng văn bản có người làm chứng tại điều 656: “Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải kí hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ kí, điểm chỉ của người lập di chúc và kí vào bản di chúc. Việc lập di chúc phải tuân theo qui định tại Điều 653 và Điều 654 của Bộ luật này”. Trong những trường hợp mà người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc vì một số lí do nhất định nào đó thì pháp luật vẫn công nhận họ có quyền lập di chúc nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện khác theo luật định. Trên thực tế có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc một người không thể tự mình viết bản di chúc; có thể do không biết chữ (trình độ học vấn), do mù lòa hoặc do tay chân không lành lặn dẫn đến không thể tự tay mình viết được bản di chúc (do yếu tố thể chất, sức khỏe)… Tuy nhiên, họ vẫn được pháp luật công nhận cho quyền được lập di chúc của riêng mình. Nếu họ không thể tự mình viết thì có thể nhờ người khác viết hộ nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng. Một lần nữa, chúng ta lại thấy được sự cần thiết, quan trọng và cần phải có của những người làm chứng trong các hình thức di chúc nói riêng và trong bộ luật dân sự nói chung. Hai người làm chứng này là cơ sở cho việc thẩm định tính đúng đắn, tính xác thực của di chúc hay nói một cách chính xác thì họ sẽ là những người kiểm tra xem người viết hộ di chúc có thể hiện lại đầy đủ, nguyên văn ý chí của người lập di chúc hay không. Ngoài hai người làm chứng ra thì pháp luật còn yêu cầu người lập di chúc phải kí hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ kí, điểm chỉ của người lập di chúc và kí vào bản di chúc. Như vậy, ngoài những điều kiện khách quan ra (những người làm chứng) thì pháp luật còn yê
Luận văn liên quan