Ông A là chủ sử dụng hợp pháp thửa đất diện tích 250 m2. Năm 2005, thửa đất này được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện khu đất này có một ngôi nhà ở và xây dựng tường rào bao xung quanh. Năm 2008, do nhu cầu mở rộng, nâng cấp đường giao thông liên xã, UBND xã Hải Bình (huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa) yêu cầu ông A tự tháo dỡ tường bao và cây cối trên phần diện tích đất nhô ra phía ngoài đường (phần đất này nằm trong khuôn viên đất của gia đình ông A). Ông A không đồng ý với lí do đây là phần đất của gia đình ông, không phải là đất lấn chiếm. Sau đó, UBND huyện Tĩnh Gia có công văn chỉ đạo UBND xã Hải Bình tổ chức cưỡng chế dỡ bỏ công trình, cây cối trên phần đất của gia đình ông A được sử dụng để cải tạo đường giao thông liên xã. Gia đình ông A không đồng thuận và gửi rất nhiều đơn khiếu nại gửi UBND huyện Tĩnh Gia, UBND xã Hải Bình nhưng đến nay vẫn chưa nhận được hồi âm.
8 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3207 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập lớn môn luật đấi đai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài số 02.
Ông A là chủ sử dụng hợp pháp thửa đất diện tích 250 m2. Năm 2005, thửa đất này được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện khu đất này có một ngôi nhà ở và xây dựng tường rào bao xung quanh. Năm 2008, do nhu cầu mở rộng, nâng cấp đường giao thông liên xã, UBND xã Hải Bình (huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa) yêu cầu ông A tự tháo dỡ tường bao và cây cối trên phần diện tích đất nhô ra phía ngoài đường (phần đất này nằm trong khuôn viên đất của gia đình ông A). Ông A không đồng ý với lí do đây là phần đất của gia đình ông, không phải là đất lấn chiếm. Sau đó, UBND huyện Tĩnh Gia có công văn chỉ đạo UBND xã Hải Bình tổ chức cưỡng chế dỡ bỏ công trình, cây cối trên phần đất của gia đình ông A được sử dụng để cải tạo đường giao thông liên xã. Gia đình ông A không đồng thuận và gửi rất nhiều đơn khiếu nại gửi UBND huyện Tĩnh Gia, UBND xã Hải Bình nhưng đến nay vẫn chưa nhận được hồi âm.
Hỏi:
1, Hãy bình luận việc làm của UBND huyện Tĩnh Gia và UBND xã Hải Bình đối với gia đình ông A?
2, Việc khiếu nại của ông A đúng hay sai? Tại sao?
3, Cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền giải quyết vụ việc này? Tại sao?
4, Vụ việc này cần được giải quyết như thế nào?
Trước tiên, ta cần khẳng định thửa đất 250 m2 mà ông A là chủ sử dụng là hợp pháp. Bởi vì, mảnh đất này được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2005. Và việc thu hồi một phần đất của nhà ông A trong tình huống trên là để mở rộng, nâng cấp đường giao thông liên xã. Như vậy, phần đất nhô ra phía ngoài đường của gia đình ông A không phải là đất lấn chiếm.
Theo Khoản 1 Điều 38 LĐĐ 2003 thì Nhà nước sẽ thu hồi đất trong trường hợp: "1. Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế;". Cụ thể, việc thu hồi đất của ông A ở đây là nhằm mục đích lợi ích công cộng.
1. Bình luận việc làm của UBND huyện Tĩnh Gia và UBND xã Hải Bình đối với gia đình ông A:
* Về thẩm quyền thu hồi đất:
Theo quy định tại Điều 37 và Điều 44 Luật đất đai năm 2003 thì cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất và cho phép chuyển mục đích sử dụng đất thì có thẩm quyền thu hồi đất. Cụ thể tại Khoản 2 Điều 44 quy định như sau: "2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.".
Như vậy, thẩm quyển thu hồi đất của gia đình ông A là thuộc về UBND cấp huyện chứ không phải thuộc về UBND cấp xã. Cụ thể ở đây là thuộc về UBND huyện Tĩnh Gia. Trong tình huống trên thì không nêu rõ việc thu hồi đất của ông A là do UBND xã tự ý quyết định hay đã được UBND huyện Tĩnh Gia ủy quyền. Tuy nhiên, việc thu hồi đất đó có là do UBND tự ý làm hay được ủy quyền thì cũng đều là trái pháp luật vì theo Khoản 3 Điều 44 có quy định "3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không được uỷ quyền.".
* Về thủ tục thu hồi đất:
Việc thu hồi đất theo như quy định của pháp luật thì phải được thực hiện đúng theo trình tự. Mà việc thu hồi đất của ông A là nhằm phục vụ lợi ích công cộng, nên trình tự thủ tục sẽ được thực hiện theo Khoản 2 Điều 39 LĐĐ 2003. Theo đó, vì thửa đất của ông A là đất phi nông nghiệp nên UBND huyện Tĩnh Gia phải thông báo trước 180 ngày cho gia đình ông A biết về việc thu hồi đất đó. Tuy nhiên, trong tình huống trên, UBND huyện lại không thông báo trước với gia đình ông A và UBND xã Hải Bình cũng chỉ yêu cầu ông A tự tháo dỡ tường bao và cây cối trên phần diện tích đất nhô ra phía ngoài đường là hoàn toàn trái pháp luật.
Ngoài ra, theo Điều 172 NĐ 181/2004 về thi hành luật đất đai thì việc làm của UBND huyện Tĩnh Gia và UBND xã Hải Bình là vi phạm quy định về thu hồi đất: "Không thông báo trước cho người có đất bị thu hồi theo quy định tại Điều 39 của Luật Đất đai", "thu hồi đất không đúng thẩm quyền".
* Về việc cưỡng chế thu hồi đất: Vì không thực hiện đúng trình tự, thủ tục về thu hồi đất nên việc cưỡng chế dỡ bỏ công trình, cây cối trên phần đất của gia đình ông A mà UBND huyện Tĩnh Gia chỉ đạo UBND xã Hải Bình thực hiện cũng là trái pháp luật. Việc cưỡng chế thu hồi đất đó không đúng với quy định tại Điều 32 NĐ 69/2009 của Chính phủ về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
* Về việc giải quyết khiếu nại của ông A: Theo điều 34 và 36 Luật khiếu nại, tố cáo thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, người giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lý để giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại biết; trường hợp không thụ lý để giải quyết thì phải nêu rõ lý do. Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết.
Ở vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết.
Như vậy, việc không hồi âm những đơn khiếu nại của ông A của UBND xã Hải Bình và UBND huyện Tĩnh Gia là không đúng với những điều pháp luật đã quy định.
2. Việc khiếu nại của ông A là đúng hay sai? Vì sao?
Điều 74 Hiến pháp 1992 có quy định về quyền khiếu nai, tố cáo như sau: “Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyềnvề việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chữc xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất kì cá nhân nào…Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lí nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự…”.
Khoản 1 Điều 138 LĐĐ 2003 cũng có quy định người sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lí đất đai. Ngoài ra, Khoản 1 Điều 63 NĐ 84/2007 quy định “Trong thời hạn không quá 90 ngày, kể từ ngày Chủ tịch UBND cấp huyện có quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý đất đai mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không đồng ý với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó thì có quyền nộp đơn khiếu nại đến UBND cấp huyện”.
Trong tình huống trên, Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia đã có quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quan lý đất đai. Cụ thể ở đây là gửi công văn chỉ đạo xuống cho UBND xã Hải Bình tổ chức cưỡng chế dỡ bỏ công trình, cây cối trên phần đất nhô ra của gia đình ông A. Mà việc quyết định thu hồi đất và cưỡng chế thu hồi đất là thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện nên ông A hoàn toàn có quyền gửi đơn khiếu nại đến UBND huyện Tĩnh Gia.
Tuy nhiên, trong tình huống trên còn đề cập đến việc ông A gửi đơn khiếu nại đến UBND xã Hải Bình. Căn cứ theo Điều 144 LĐĐ 2003 thì giả sử thủ trưởng, công chức, viên chức thuộc cơ quan quản lý cấp xã và cán bộ địa chính xã vi phạm trình tự thu hồi đất thì ông A cũng chỉ được gửi đơn kiến nghị đến Chủ tịch UBND xã Hải Bình. Nên việc ông A gửi đơn khiếu nại đến UBND xã Hải Bình là sai.
3. Cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền giải quyết vụ việc này? Vì sao?
Khoản 2 Điều 63 NĐ 84/2007 có quy định như sau: "2. Chủ tịch UBND cấp huyện có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thời hạn quy định của Luật khiếu nại, tố cáo.". Theo quy định của pháp luật hiện hành thì các quyết định hành chính của UBND cấp nào mà bị khiếu nại thì UBND cấp đó có trách nhiệm giải quyết lần đầu. Như vậy, cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc trên là UBND huyện Tĩnh Gia và người phải có trách nhiệm giải quyết khiếu nại của ông A là Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc giải quyết khiếu nại về thu hồi đất còn rất nhiều bất cập. Chính vì vậy mà dẫn đến việc đơn khiếu nại của ông A đã được gửi đi từ năm 2008 cho đến nay vẫn chưa được giải quyết. Pháp luật chỉ quy định “trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp huyện…” mới được khởi kiện ra Tòa án hoặc khiếu nại đến UBND cấp tỉnh. Mà việc giải quyết khiếu nại hành chính theo sự phán quyết của hệ thống hành chính bị hạn chế, nhiều nhất được giải quyết ở 2 cấp, trong đó cấp thứ nhất lại chính là cơ quan hành chính đã ban hành quyết định hành chính. Cơ quan đã ban hành quyết định sai thì khó thừa nhận mình đã sai nên để chờ được giải quyết khiếu nại cũng là chuyện của rất lâu sau đó. Và đến khi đó thì đất có bị thu hồi trái pháp luật hay không thì cũng đã bị thu hồi theo như quy định tại Khoản 2 Điều 40 NĐ 69/2009 “Trong khi chưa có quyết định giải quyết khiếu nại thì vẫn phải tiếp tục thực hiện quyết định thu hồi đất”.
4. Vụ việc này cần được giải quyết thế nào?
Chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia cần nhanh chóng giải quyết đơn khiếu nại của ông A.
Việc tiến hành thu hồi đất của UBND xã Hải Bình trái thẩm quyền nên cần phải có những biện pháp kỉ luật những cán bộ, công chức trong việc thu hồi đất này (trong trường hợp thực hiện việc thu hồi đất không phải do chỉ đạo của UBND huyện mà các cán bộ, công chức thuộc cơ quan quản lý đất đai UBND xã tự ý thực hiện).
Quyết định cưỡng chế dỡ bỏ công trình, cây cối trên phần đất của gia đình ông A là không đúng với trình tự thủ tục thu hồi đất. Do vậy, cẩn phải hủy bỏ quyết định hành chính này.
Tuy nhiên, để mở rộng và nâng cấp đường giao thông liên xã, vẫn cần phải thu hồi một phần đất của nhà ông A nhô ra phía ngoài đường. Do vậy, việc tiến hành thu hồi đất phải tuân thủ theo quy định của pháp luật.
Trước khi thu hồi đất, UBND huyện Tĩnh Gia phải thông báo cho gia đình ông A biết lý do thu hồi đất, thời gian và kế hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư. Trong trường hợp ông A vẫn không đồng ý với những quyết định trên thì có thể khiếu nại đến UBND cấp tỉnh hoặc Tòa án nhân dân trong thời hạn 45 ngày kể từ khi được thông báo.
Theo Khoản 7 Điều 107 LĐĐ 2003, ông A có nghĩa vụ giao lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất. Khi bị thu hồi đất, ông A sẽ được xem xét để bồi thường và tái định cư.
Trường hợp thu hồi đất của nhà ông A không thuộc những trường hợp thu hồi đất mà không bồi thường quy định ở Điều 43 LĐĐ 2003. Như vậy, căn cứ vào quy định tại Khoản 2 Điều 14 NĐ 69/2009: “Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất.” thì gia đình ông A có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên sẽ được bồi thường.
Ở tình huống này, chỉ thu hồi một phần tường dào bao quanh và cây cối nhô ra phía ngoài đường (không ảnh hưởng đến nhà ở). Do vậy, căn cứ theo Điều 18 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT, hộ gia đình nhà ông A không thuộc trường hợp được bố trí tái định cư. Cho nên, ông A sẽ được bồi thường giá trị quyền sử dụng đất (phần đất bị thu hồi) tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng đã được UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định và công bố.
Bồi thường về tài sản trên đất: Điều 24 NĐ 69/2009 quy định về việc bồi thường nhà, công trình xây dựng trên đất. Tường dào là công trình xây dựng trên đất, mức bồi thường bằng tổng giá trị hiện có của công trình bị thiệt hại và khoản tiền tính bằng phần trăm theo giá trị hiện có của công trình.
Bồi thường đối với cây trồng: tình huống này không nói đến loại cây cối mà gia đình ông A phải chặt là cây gì. Việc bồi thường đối với cây trồng sẽ được áp dụng theo Điều 24 NĐ 197/2004.
Nếu UBND huyện Tĩnh Gia đã thực hiện việc thu hồi đất đúng trình tự pháp luật mà ông A vẫn không chấp hành thì UBND huyện Tĩnh Gia có quyền tổ chức cưỡng chế buộc ông A dỡ bỏ công trình, cây cối trên phần đất nhô ra mặt đường đó. Ông A có nghĩa vụ phải chấp hành cưỡng chế, đồng thời có quyền khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật đất đai, Nxb, CAND, Hà Nội, 2009.
Luật đất đai 2003.
Luật khiếu nại, tố cáo.
Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết hưỡng dẫn thi hành Luật đất đai.
Nghị định số 197/2004/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
Nghị định số 69/2009/NĐ-CP về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Nghị định số 84/2007/NĐ-CP quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.