Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng dối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội bắt quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản trở điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Để tạo điều kiện cho đấu tranh phòng ngừa tội phạm, Pháp luật TTHS của Nhà nước ta quy định nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau. Trong số những biện pháp đó có biện pháp tạm giam
15 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2872 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập lớn tố tụng hình sự về tạm giam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
B. NỘI DUNG.
I, Nhận thức chung về biện pháp tạm giam
1. Khái niệm biện pháp tạm giam
1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng dối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội bắt quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản trở điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Để tạo điều kiện cho đấu tranh phòng ngừa tội phạm, Pháp luật TTHS của Nhà nước ta quy định nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau. Trong số những biện pháp đó có biện pháp tạm giam
1.2. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam (Điều 88 BLTTHS năm 2003).
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về biện pháp tạm giam: theo tác giả Nguyễn Văn Nguyên trong cuốn “các biện pháp ngăn chặn và nhưng vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng” có đưa ra khái niệm “tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất được áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội mà BLHS quy định hình phạt tù trên một năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội” chúng ta nhận thấy định nghĩa trên chưa nêu ra được cơ quan có thẩm quyển áp dụng biện pháp tạm giam và mục đích của tạm giam; còn theo Nguyễn Văn Điệp trong luận án tiến sĩ luật học năm 2006 về “các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam trong TTHSVN” có nêu “tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi”. Tuy nhận định này đã nêu ra được mục đích nhưng chưa nêu ra được cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam cũng như nhưng căn cứ áp dụng BPNC tạm giam; giáo trình trường Đại học luật Hà Nội thì cho rằng “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, tòa án áp dụng đối vói bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trong hoặc đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”
Mặc dù mỗi quan điểm mỗi khác nhưng nhìn chung thì chúng ta đều nhận thấy: tạm giam là biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khác nhất trong số các biện pháp ngăn chặn. Người bị tạm giam bị cách li khỏi xã hội trong một thời giann nhất định và bị hạn chế một số quyền cơ bản của công dân.
2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam.
Mục đích của tạm giam.
Ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng BPNC tạm giam còn có mục đích riêng nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng. Ví dụ: việc áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khia của bị can vào bất cứ khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải mất thời gain triệu tập nhiều lần, giúp cho quản lý giám sát bị can được chặt chẽ; còn việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm đảm bảo cho việc thi hành bản án có hiệu lực pháp luật được thuận tiện.
2.2. Ý nghĩa của tạm giam.
Thứ nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điêu tra xử lý tội phạm, ngăn chặn nhanh chóng, làm rõ tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội là một nhiệm vụ quan trọng của Cơ quan điều tra, VKS, TAND. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, các cơ quan tiến hành tố tụng được phép áp dụng BPNC, trong đó tạm giam giữ vai trò quan trọng. Áp dụng BPNC tạm giam sẽ đảm bảo cho sự có mặt của bị can, bị cáo trong hoạt động tố tụng khi cần thiết, bảo đảm để bản án tuyên có điều kiện thi hành khi có hiệu lực pháp luật cũng như bảo đảm tính chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng (giữ bí mật điều tra, không cho bị cáo cất giấu công cụ, phương tiện phạm tội…)
Thứ hai. việc quy định biện pháp tam giam thể hiện sự cưỡng chế của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, củng cố, tăng cường pháp chế XHCN. Biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giam nói riêng ảnh hưởng trực tiếp tới quyền tự do cá nhân, người bị áp dụng biện pháp này sẽ bị cách li khỏi xã hội trong một thời gian nhất định, bi hạn chế một số quyền công dân: quyền tự do đi lại, quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Chính vì thế mà biện pháp tạm giam có tác dụng ngăn ngừa tội phạm tiêp tục phạm tội, ngăn ngừa hậu quả hoặc gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Thứ 3, việc quy định BPNC tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc, góp phần bảo đảm và tôn trọng các quyền cơ bản của công dân. Điều 71 Hiến pháp 1992 đã khẳng định “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.”
Tôn trọng vảo bảo vệ quyền cơ bản của công dân là một nguyên tắc quan trọng trong không chỉ trong tố tụng hình sự. Vì vậy các cán bộ điều tra, truy tố, xét xử cần đối xử với bị cáo như một công dân bình thường. BPNC tạm giam không chỉ thể hiện tính cưỡng chế của Nhà nước mà nó còn là phương tiện hữu hiện để bảo vệ những quyền đó khi nó có nguy cơ bị xâm hại hoặc đang bị xâm hại. Tuy hạn chế một số quyền của công dân nhưng nó bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khác.
Thứ 4, tạm giam thể hiện tính ưu việt của nhà nước ta. Pháp luật XHCN không cho phéo bất cứ hành vi nào xâm hại tới quyền và lợi ích chính đáng của công dân dù đó là do ai thực hiện
3. Đối tượng áp dụng.
Biện pháp tạm giam chỉ áp dụng cho bị can, bị cáo. Những người không phải là bị can, bị cáo thì không áp dụng biện pháp tạm giam mà cố thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Theo khoản 1 Điều 88 BLTTHS năm 2003 “Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.”
- Trường hợp thứ nhất: bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. tội rất nghiêm trọng (theo khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009). Nếu bị can, bị cáo thuộc những trường hợp này thì người có thẩm quyền có thể ra lệnh tạm giam ngay mà không cần thêm các căn cứ khác.
- Trường hợp thứ hai: bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Tội phạm ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng được quy định ở khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999. Đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy đinh mức phạt tù từ hai năm tù trở xuống hoặc hình phạt khác không phải là hình phạt tù thì không áp dụng BPNC tạm giam. Nếu cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp khác như: cấm ra khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị khác. Để bảo đảm trong thời hạn bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định mức hình phạt tù trên 2 năm thì để tạm giam họ phải có điều kiện thứ hai đó là căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể bỏ trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để các định được điều này cần dựa vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng BPNC khác ít nghiêm khắc.
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn không được quy định trong luật. Tuy vậy, thực tiễn đấu tranh chống tội phạm đã đúc kết những căn cứ chủ yếu cần phải dựa vào đó để xem xét là: Tình trạng cư trú của bị can, bị cáo (Có nơi cư trú? Thường trú hay tạm trú? Nếu tạm trú thì dài hạn hay ngắn hạn? Có khai báo với chính quyền hay không? Nơi cư trú có ở quá xa nơi tiến hành các hoạt động tố tụng hay không?); Tình trạng nghề nghiệp (Có nghề nghiệp không? Làm việc trong cơ quan, tổ chức hay làm nghề tự do?); Tính chất hành vi đã thực hiện (cướp, trộm cắp, giết người hay lừa đảo…); Nhân thân (tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình, lịch sử bản thân…); Sự ràng buộc với gia đình, quê quán, cơ sở làm việc; Mối tương quan về lợi ích giữa việc bỏ trốn với việc chấp nhận bị xử lý trước pháp luật; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như liên hệ với người thân ở xa, mua vé đi xa…
Khi vận dụng các căn cứ để xét bị can, bị cáo có thể trốn cần lưu ý là không phải khi nào cũng có thể làm rõ được tất cả các nội dung trên mà tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể và phải biết căn cứ vào nội dung nào là chủ yếu. Để quyết định việc tạm giam không nhất thiết phải làm rõ tất cả các nội dung trên, có thể chỉ một nội dung cũng đã đủ để nhận định là đối tượng sẽ trốn.
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử: cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như tiêu hủy chứng cứ, làm giả hiện trường, thông đồng với nhau về những lời khai gian dối, mua chuộc, khống chế người làm chứng, người bị hại hoặc các hình thức khác. Cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử là trường hợp “gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử” nhưng ở mức độ cao hơn mang tính đối phó lại việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Việc xác định bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử phải dựa trên những căn cứ khách quan và phải xuất phát từ yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét xử chứ không phải sự suy đoán chủ quan tùy tiện.
Theo quy định của BLTTHS thì đối tượng bị áp dụng tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc chưa bị Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử thì không thể là đối tượng áp dụng của biện pháp tạm giam. Tuy nhiên không phải áp dụng biện tạm giam theo khoản 2 Điều 88 BLTTHS là “Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng những biện pháp ngăn chặn khác”. Với việc quy định này nhà nước ta đã thể hiện khá rõ nguyên tắc nhân đạo XHCN, tôn trọng quyền con người, đảm bảo quyền của bà mẹ và trẻ em. Với điều kiện sinh hoạt trong trại giam thì không thể đảm bảo những nhu cấu thiết yếu cho phụ nữ mang thai, phụ nữ nuôi con dưới ba sáu tháng tuổi, người già yếu và người bị bệnh nặng. Hơn nữa trong những trường hợp này thì bị can, bị cáo đã có nơi cư trú rõ ràng nếu họ không thuộc các trường hợp đặc biệt kể trên thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng những biện pháp ngăn chặn khác phù hợp để đảm bảo cho sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Người gài yếu là người từ 70 tuổi trở lên hoặc người trên 60 tuổi mà thường xuyên ốm yếu; người bị bệnh nặng là người bị mặc bệnh hiểm nghèo mà tính mạng đang bị đe dọa như ung thư, lao, AIDS giai đoạn cuối, bại liệt, bệnh tim mạch nặng hoặc chưa rõ bệnh gì nhưng ở tình trạng đau ốm triền miên và trầm trọng đến mức tính mạng đang bị đe dọa mà nơi cư trú rõ ràng. Tuy nhiên nhằm tạo cơ sở pháp lý nhằm áp dụng biện pháp này rõ ràng, chặt chẽ tránh tùy tiện, khoản 2 Điều 88 BLTTHS đã quy định những trường hợp đặc biệt này vẫn phải áp dụng biện pháp tạm giam cụ thể là:
“a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã
b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia”.
Đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên việc áp dụng BPNC tạm giam ngoài việc có đủ căn cứ nên trên thì còn phải tuân thủ khoản 1 và khoản 2 Điều 303 BLTTHS
“1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.”
4. Căn cứ áp dụng BPNC tạm giam
BLTTHS không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng BPNCTG mà chỉ quy định áp dụng BPNC nói chung. Như điều 79 BLTTHS “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm”.
Trong số các căn cứ trên: căn cứ “kịp thời ngăn chặn tội phạm” chỉ áp dụng cho trường hợp bị bắt quả tang theo khoản 1 Điều 82 hoặc bắt người trong người trong trường hợp khẩn cấp như ở điểm a khoản 1 Điều 81 BLTTHS nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, không để tội phạm xảy ra hoặc hoàn thành hay không để người phạm tội kết thúc hành vi phạm tội của mình, gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Căn cứ này không thể là ăn cứ áp dụng cho BPNC tạm giam vì đối tượng áp dụng BPNC tạm giam là bị can, bị cáo, hành vi phạm tội của họ đã được thực hiện trong quá khứ. Như vậy có các căn cứ sau:
- Căn cứ thứ nhất: khi có căn cứ cho rằng bị cán, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Hành vi gây khó khăn cho hoạt động điểu tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thể hiện qua việc sau khi thực hiện hành vi phạm tội người phạm tội có thể bỏ trốn, tiêu hủy, làm giả hoặc thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, mua chuộc, dụ dỗ, lừa phỉnh, khống chế người làm chứng, người bị hại… dẫn đến gây khó khăn cho việc xác định, làm rõ sự thật khác quan vụ án.
Từ thực tiễn cuộc đấu tranh chống tội phạm có thể rút ra những căn cứ cần xem xét để nhận định bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc tiến hành tố tụng thường là:
+ Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Những bị can, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì thường tiến hành nhiều hoạt động đối phó hoạt động tố tụng.
+ Nhân thân người phạm tội, như loại đối tượng lưu manh, côn đồ thường có hành động đe dọa, khống chế người làm chứng, người bị hại hoặc thông đồng với đồng bọn về những lời khai gian dối.
+ Sự ràng buộc với gia đình, cơ quan, tổ chức nghề nghiệp.
+ Tình trạng chứng minh là mức độ làm rõ về hành vi phạm tội của bị can, bị cáo, đối với những đối tượng mà hành vi của họ cơ bản đã được làm rõ thì hành vi đối phó hoạt động tố tụng sẽ hạn chế và ngược lại.
+ Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như tiêu hủy chứng cứ, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có…
Khi xem xét các tình tiết trên phải phân tích tổng hợp để tránh suy đoán chủ quan và không nhầm hiện tượng với bản chất.
- Căn cứ thứ hai: khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội
Để nhận định bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội phải dựa vào nhiều tình tiết và xem xét đánh giá một cách tổng hợp. Những tình tiết đó thường là: Tính chất của tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện; Nhân thân của bị can, bị cáo; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như đe dọa, khống chế, mua chuộc người làm chứng, người bị hại, sử dụng thời gian bất minh, đi lại gặp gỡ bọn tội phạm.
Về các yếu tố phản ánh vế nhân thân của bị can, bị cáo như: là những phần tử xấu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, là những tội phạm có tính chất chuyên nghiệp … căn cứ này còn được thể hiện qua hành vi của bị can, bị cáo như đe dọa trả thù người làm chứng, người bị hại, và sự đe dọa đó có khả năng trở thành hiện thực.
- Căn cứ 3: để bảo đảm thi hành án
Công tác thi hành án thực sự là vấn đề quan trọng. Khi cần đảm bảo thi hành án, tùy theo tính chất của từng vụ án và nhân thân người bị kết án, Tòa án có thể áp dụng BPNC thích hợp, trong đó có BPNC tạm giam để đảm bảo cho việc thi hành án.
5. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam.
Theo khoản 3 Điều 88 “Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn”. Theo Điều 5 Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003 quy định về việc phê chuẩn lệnh tạm giam trong trường hợp người đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can (Khoản 3 Điều 88)
“5.1. Để đảm bảo trong thời gian Viện kiểm sát xét phê chuẩn lệnh tạm giam đối với người đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can vẫn còn trong thời hạn tạm giữ thì chậm nhất 12 giờ trước khi hết thời hạn tạm giữ hoặc gia hạn tạm giữ, Cơ quan điều tra phải giao hồ sơ đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và đề nghị phê chuẩn lệnh tạm giam bị can cho Viện kiểm sát cùng cấp. Khi hồ sơ đã chuyển cho Viện kiểm sát cùng cấp. Khi hồ sơ đã chuyển cho Viện kiểm sát để xét phê chuẩn, nếu có tài liệu bổ sung thì cơ quan điều tra phải chuyển ngay cho Viện kiểm sát để kịp thời phục vụ cho việc xét phê chuẩn.
Trường hợp này, việc xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can được tiến hành cùng với việc xét phê chuẩn lệnh tạm giam bị can. Nếu chưa đủ căn cứ khởi tố bị can, nhưng có căn cứ gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra gia quyết định gia hạn tạm giữ và gửi ngay cho Viện kiểm sát phê chuẩn. Trong thời hạn gia hạn tạm giữ đó, Cơ quan điều tra phải khẩn trương thu thập, củng cố tài liệu, chứng cứ và chuyển ngay cho Viện kiểm sát để xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.
Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can và yêu cầu Cơ quan điều tra trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Trường hợp có gia hạn tạm giữ, nếu không phê chuẩn thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can và ra quyết định trả tự do cho người bị tạm giữ.
Nếu thấy việc khởi tố bị can là có căn cứ, nhưng không cần thiết phải tạm giam bị can thì Viện kiểm sát ra quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và ra quyết định không phê chuẩn lệnh tạm giam; nếu xét cần thì yêu cầu Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp ngăn chặn khác đối với bị can.
5.2. Hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và phê chuẩn lệnh tạm giam trong trường hợp người đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can, gồm các tài liệu sau đây:
a) Công văn đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và đề nghị phê chuẩn lệnh tạm giam bị can;
b) Quyết định tạm giữ, quyết định gia hạn tạm giữ (nếu có); lệnh tạm giữ bị can;
……….
h) Bản kê tên các tài liệu trong hồ sơ và từng trang tài liệu được đóng dấu bút lục của Cơ quan điều tra.”
Như vậy thẩm quyền ra lệnh tạm giam có thể do nhiều chủ thể khác nhau