Bài tập Luật so sánh (Đại học Luật HN)

Common law là dòng họ pháp luật cơ bản trên thế giới, có cội nguồn từ hệ thống pháp luật Anh, sau này phát triển ở Mĩ và những nước là thuộc địa của Anh, Mĩ trước đây. Đây là hệ thống pháp luật phát triển từ những tập quán (custom), hay còn được gọi là hệ thống pháp luật tập quán ( hệ thống pháp luật coi trọng tiền lệ -precedents/ judge made law) Trên thế giới, luật thành văn vốn có lịch sử phát triển lâu đời. Luật thành văn trong hệ thống common law ra đời khá muộn song cũng đã phát triển nhanh chóng và hiện nay đã trở thành nguồn luật quan trọng trong hệ thống pháp luật của các nước thuộc dòng họ này.

doc4 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3643 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập Luật so sánh (Đại học Luật HN), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu: Common law là dòng họ pháp luật cơ bản trên thế giới, có cội nguồn từ hệ thống pháp luật Anh, sau này phát triển ở Mĩ và những nước là thuộc địa của Anh, Mĩ trước đây. Đây là hệ thống pháp luật phát triển từ những tập quán (custom), hay còn được gọi là hệ thống pháp luật tập quán ( hệ thống pháp luật coi trọng tiền lệ -precedents/ judge made law) Trên thế giới, luật thành văn vốn có lịch sử phát triển lâu đời. Luật thành văn trong hệ thống common law ra đời khá muộn song cũng đã phát triển nhanh chóng và hiện nay đã trở thành nguồn luật quan trọng trong hệ thống pháp luật của các nước thuộc dòng họ này. Nội dung: Các hệ thống pháp luật trực thuộc dòng họ common law ít nhiều chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật của Anh và thừa nhận án lệ như nguồn luật chính thống ( tức là thừa nhận học thuyết tiền lệ pháp). Ở dòng họ này, phần lớn các chế định và quy phạm pháp luật được hình thành bằng án lệ. Thẩm phán vừa là người xét xử vừa là người đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo ra pháp luật và phát triển các quy phạm pháp luật. Tiêu biểu cho dòng họ Common Law là Anh, Mỹ, Canada, Úc... Án lệ có vị trí rất quan trọng, ví dụ như khi Nghị viện Anh giành được quyền lực tối cao, luật - tác phẩm của nghị viện có hiệu lực cao hơn cả các quy tắc Common Law và Equity, có thể sửa đổi các nguyên tắc đó; tuy nhiên do hai hệ thống này đã có một uy tín rất lớn cho nên các nhà làm luật chỉ sửa đổi, củng cố chúng mà thôi. Tuy nhiên , trong xu hướng hội tụ, dòng họ Common Law sẽ ngày càng coi trọng, sử dụng nhiều luật thành văn, văn bản luật, có thể dưới hình thức các bộ pháp điển và hiến pháp thành văn. Trên nguyên tắc, khi tham gia vào các Hiệp ước của khu vực, điều ước quốc tế thì những văn bản này có hiệu lực cao hơn; tuy nhiên, tùy vào hoàn cảnh và điều kiện của từng nước mà các nhà làm luât có thể soạn thảo và ban hành bất kì đạo luật nào trên cơ sở Common Law và Equity để áp dụng đối với nước mình.Từ vài thập kỉ gần đây, trong các hệ thống pháp luật này, án lệ không còn là nguồn luật duy nhất mà luật thành văn đã ngày càng trở thành nguồn luật quan trọng, thậm chí là nguồn luật quan trọng hàng đầu, đặc biệt đối với những lĩnh vực không có án lệ. Luật thành văn trong hệ thống pháp luật của nước Anh: Nghiên cứu hệ thống pháp luật Anh cho thấy,sự ra đời của luật thành văn muộn hơn Âu lục địa. Mãi tới 600 năm sau công nguyên, cái có thể coi là luật thành văn mới xuất hiện. Mặc dù phần lớn luật thành văn lúc đó mới chỉ là sự ghi chép lại những tập quán có từ thời trước nhưng nó cũng đã bước đầu đánh dấu sự có mặt và vị trí của luật thành văn trong hệ thống pháp luật của Anh. Tới triều đại Herry đệ nhị , luật thành văn mới thực sự phát triển và vị trí của nó dần dần được khẳng định. Trước kia pháp luật nước Anh không được pháp điển hóa như pháp luật của các nước thuộc dòng họ civil law, nước Anh không có những bộ luật chứa đựng toàn bộ những quy phạm pháp luậtđiều chỉnh lĩnh vực quan hệ xã hội đặc thù nào đó,thậm chí, nước Anh còn không có hiến pháp thành văn.Quan điểm phổ biến của người Anh: luật thành văn mặc dù được thừa nhận là nguồn luật ở Anh nhưng thực chất chỉ được ban hành dựa trên án lệ nhằm chắt lọc, hợp nhất các quy phạm pháp luật nằm rải rác ở các bản án khác nhau. Tuy nhiên luật thành văn vẫn có giá trị pháp lí cao hơn so với án lệ, thể hiện ở việc nếu giải pháp pháp lí cho vụ việc có liên quan được tìm thấy trong cả án lệ và luật thành văn và giữa hai nguồn luật này có sự mâu thuẫn thì về nguyên tắc, luật thành văn được ưu tiên áp dụng. Điều đó cho thấy luật thành văn cũng có vị trí khá quan trọng trong pháp luật Anh. Từ thế kỷ XX, luật thành văn ở Anh đã có xu hướng phát triển. Luật được soạn thảo theo một tư tưởng rất mới, khác nhiều so với nguyên tắc Common Law. Khi gia nhập cộng đồng chung châu Âu EEC, nay là EU, và cũng là thành viên của Liên hợp quốc, Nghị viện Anh đã tiếp nhận các điều ước quốc tế và các quy định pháp luật của Liên minh châu Âu (VD: Luật năm 1972, Công ước về nhân quyền) - theo truyền thống luật La mã - vào trong hệ thống pháp luật Anh, bằng hình thức áp dụng trực tiếp các văn bản đó hoặc nội luật hóa. Về nguyên tắc, trong trường hợp xung đột pháp luật thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế hoặc của Liên minh. Điều đó cho thấy pháp luật Anh ngày càng coi trọng, sử dụng nhiều luật thành văn, văn bản luật, có thể dưới hình thức các bộ pháp điển và hiến pháp thành văn. Một nguyên nhân để pháp luật thành văn ngày càng được hệ thống pháp luật Anh càng ngày càng coi trọng là Thượng Nghị viện càng ngày càng mong muốn khẳng định vai trò của mình - cơ quan quyền lực tối cao của vương quốc. Các quy tắc Common Law và Equity của Tòa án Anh ngày càng tỏ ra không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao trong việc kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của các cơ quan hành chính. Ngày nay, luật thành văn đã có vị trí rất quan trọng thậm chí trở thành nguồn luật quan trọng hàng đầu trong hệ thống pháp luật của Anh. Luật thành văn trong hệ thống pháp luật của nước Mỹ: Trái với Anh quốc, nước Mỹ có hiến pháp thành văn. Nguồn gốc của người Mỹ là từ Anh di cư sang, bản thân họ vốn đã không thích theo mô hình pháp luật phức tạp của Anh. Ngay từ ngày đầu thành lập Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, người Mỹ đã cho ra đời bản Hiến pháp đầu tiên của thế giới - một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý tối cao đối với người Mỹ, trong khi ở Anh chỉ có hiến pháp không thành văn. Tại Mỹ, do bộ máy tư pháp được tổ chức theo mô hình ít tập trung ở cấp TW hơn ở Anh và do nhu cầu phải thường xuyên cải cách hệ thống pháp luật, Tòa án Mỹ sẵn sàng hạn chế phạm vi hiệu lực của một tiền lệ, thậm chí có thể đưa ra một quy tắc hoàn toàn ngược lại nếu thấy cần thiết . Hệ thống pháp luật thành văn của Mỹ rất phát triển. Mỹ, với rất nhiều nhà lập pháp có trình độ cao, đã cho ra đời rất nhiều bộ luật và đạo luật có giá trị thực tiễn và có tính ổn định cao. Ở các bang, hệ thống pháp luật thành văn giữ một vị trí quan trọng vì các quy tắc common law không có hiệu lực lớn như ở Anh, Nghị viện các bang rất tích cực và các bang có thẩm quyền lập pháp rất rộng. Những bất cập do sự phân tán của hệ thống pháp luật thành văn cũng đã được hạn chế nhờ có các dự luật mẫu. Luật thành văn có giá trị ràng buộc tất cả các tòa án khác.trù hiền pháp Mỹ ra,các đạo luật do quốc hội thông qua có giá trị pháp lí cao nhất, cao hơn cả phán quyết của tòa án cấp liên bang. Những điều này đã cho thấy ở Mỹ, luật thành văn có giá trị pháp lí rất cao có vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật Mỹ. Kết luận: Hiện nay, ở các nước có hệ thống pháp luật thuộc dòng họ common law, luật thành văn đã ngày càng phát triển , không chỉ có giá trị pháp lí cao mà đồng thời cũng trở thành nguồn luật quan trọng hàng đầu. Điều đó đã khẳng định vị trí quan trong của luật thành văn trong hệ thống pháp luật của các nước thuộc dòng họ common law. Ngày nay, xu hướng hội tụ của hai dòng họ pháp luật Civil law và Common Law ngày càng rõ. Sự hội tụ này là một xu hướng tất yếu trong quá trình vận động, tiếp biến và học hỏi nhau. Mỗi dòng họ sẽ phát huy được những thế mạnh đồng thời khắc phục được những hạn chế của mình. Đó là cơ sở cho một hệ thống pháp luật toàn thế giới phát triển. Danh mục tài liệu tham khảo:
Luận văn liên quan