Bài tập Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một vấn đề pháp lý rất phức tạp bởi nó xảy ra thường xuyên và liên tục trong đời sống xã hội, việc xử lý các vụ án có liên quan cũng gặp rất nhiều khó khăn. Một trong những vấn đề gây tranh cãi trong nhiều vụ án là việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại và ai là người phải bồi thường thiệt hại. Đó chính là vấn đề em xin trình bày dưới đây với nội dung đề tài: Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Bài viết còn nhiều sai sót, em mong rằng thầy cô giúp em chỉ ra lỗi sai và hoàn thiện hơn về kiến thức.

doc16 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2074 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một vấn đề pháp lý rất phức tạp bởi nó xảy ra thường xuyên và liên tục trong đời sống xã hội, việc xử lý các vụ án có liên quan cũng gặp rất nhiều khó khăn. Một trong những vấn đề gây tranh cãi trong nhiều vụ án là việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại và ai là người phải bồi thường thiệt hại. Đó chính là vấn đề em xin trình bày dưới đây với nội dung đề tài: Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Bài viết còn nhiều sai sót, em mong rằng thầy cô giúp em chỉ ra lỗi sai và hoàn thiện hơn về kiến thức. ­ ­ ­ A. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân Bồi thường thiệt hại là một tình thế buộc một người phải thực hiện một hành vi hoặc có trách nhiệm gánh chịu những bất lợi về tài sản hoặc về nhân thân. Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là trách nhiệm của người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác về tài sản, tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín mà trước đó không giao kết hợp đồng hoặc có giao kết hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc hành vi vi phạm hợp đồng. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là những yếu tố, những cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, người phải bồi thường và mức độ bồi thường. Có 4 điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường Có thiệt hại xảy ra Thiệt hại xảy ra là tiền đề của việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi mục đích của việc bồi thường thiệt hại là khôi phục lại tình trạng tài sản của người bị thiệt hại. Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền do việc xân phạm đến tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức. Thiệt hại gồm; - Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa, thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. - Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe - Thiệt hại về danh dự, uy tín - Tổn thất về tinh thần Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật Việc xâm phạm đến các quyền cơ bản của người khác mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự… Hành vi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng hành động, chủ thể thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện hành vi đó. Ngoài ra pháp luật còn quy định những trường hợp gây thiệt hại nhưng không trái pháp luật, những trường hợp này không phải bồi thường. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả Thiệt hại xảy ra phải là hậu quả trực tiếp của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại. Người gây thiệt hại có lỗi Người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại khi họ có lỗi. Lỗi có thể thể hiện dưới dạng lỗi cố ý hoặc vô ý. B. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo quy định của pháp luật hiện hành Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, Điều 606 BLDS 2005 quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, tình trạng tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân. Như vậy, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân không đồng nhất với năng lực hành vi dân sự của cá nhân nhưng khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân thì không thể không căn cứ vào năng lực hành vi của cá nhân đó. Điều 606 BLDS không quy định về năng lực hành vi dân sự nhưng dựa vào yếu tố độ tuổi và sự phát triển trí tuệ của cá nhân để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chính cá nhân gây thiệt hại đó hay cha mẹ, người giám hộ,quản lý của cá nhân đó. Theo đó, chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên và có hành vi dân sự đầy đủ Pháp luật quy định người đã thành niên là người tuổi từ đủ 18 trở lên, không mắc bệnh tâm thần hay các bệnh khác mà không thể nhận thức được hành vi của mình, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và do đó cá nhân này phải tự chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình trước pháp luật. Theo khoản 1 Điều 606 BLDS thì người từ đủ 18 tuổi trở lên khi gây thiệt hại phải tự chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại bằng tài sản của mình mà không phụ thuộc vào tình trạng tài sản của cá nhân này. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều cá nhân đủ 18 tuổi nhưng vẫn cần cha mẹ chu cấp học đại học, học nghề, chưa lao động và không có tài sản riêng thì pháp luật nên quy định cha mẹ dùng tài sản của mình thực hiện nghĩa vụ thay con để bảo đảm lợi ích của người bị thiệt hại, dựa trên nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời. Theo nghị quyết 03/2006 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao, người đã thành niên gây thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại bằng tài sản của mình. Tuy nhiên người đã thành niên còn bao gồm cả người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 23 BLDS. Như vậy, phải chăng người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường như vậy? Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người đủ 18 tuổi trở lên nhưng nghiện ma túy hay các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình. Mọi giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của cá nhân này đều phải có sự đồng ý của người đại diện do tòa án chỉ định. Quy định trên nhằm hạn chế năng lực hành vi dân sự của họ khi tham gia vào những giao dịch có liên quan đến tài sản nhưng không là căn cứ loại trừ trách nhiệm của họ khi có hàn vi gây thiệt hại cho người khác. Như vậy, trên nguyên tắc của luật thì những cá nhân này vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình, trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân dưới 15 tuổi và người bị mất năng lực hành vi dân sự Cha mẹ có trách nhiệm bồi thường Theo quy định tại khoản 2 Điều 606 BLDS thì đối với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người dưới 15 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thì cha mẹ của người đó có trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của cha mẹ. Như vậy, trong trường hợp này người trực tiếp gây thiệt hại và người có trách nhiệm phải bồi thường là hai chủ thể khác nhau. Để tìm hiểu vì sao pháp luật lại quy định như vậy, ta cùng lí giải: Theo quy định tại Điều 19, 20 BLDS về năng lực chủ thể của cá nhân thì điều kiện để một cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là cá nhân đó phải thỏa mãn yếu tố độ tuổi từ 18 tuổi trở lên và yếu tố nhận thức phát triển bình thường. Quy định như vậy để cá nhân khi thực hiện bất kỳ hành vi nào cũng phải biết suy nghĩ, tự nhận thức xem hành vi đó có đúng với pháp luật hay không, từ đó phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình. Điều 20 BLDS quy định người dưới 15 tuổi ( chưa thỏa mãn độ tuổi trưởng thành nhưng đã có đủ nhận thức bình thường) như sau: - Cá nhân chưa đủ 6 tuổi được coi là người không có năng lực hành vi dân sự bởi họ chưa thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Mọi giao dịch của họ đều do ngươì đại diện theo pháp luật xác lập. Đối với những cá nhân này, khi họ gây thiệt hại cho người khác thì cha mẹ là những người đại diện đương nhiên của họ sẽ phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản của cha mẹ. - Cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi là những người có năng lực hành vi dân sự một phần, họ chỉ có thể xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong giới hạn nhất định theo quy định của pháp luật. Ngoài đó ra, những giao dịch khác khi họ xác lập, thực hiện cần được người đại diện của họ theo pháp luật đồng ý. Do đó, cha mẹ của những người gây thiệt hại trong độ tuổi này là những người đại diện đương nhiên cho con có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con gây ra. Tuy nhiên luật cũng quy định thêm trường hợp nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con dưới 15 tuổi có tài sản riêng thì lấy tài sản của con để bồi thường phần còn thiếu. Người con trong độ tuổi này gây thiệt hại nhưng trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cha mẹ chứ không phải trực tiếp người đó. Nhiều ý kiến cho rằng tuy cha mẹ không có lỗi trong sự kiện gây thiệt hại đó nhưng họ có lỗi trong việc quản lý, giám sát con mình khiến họ có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác. Tuy nhiên, xét về bản chất thì trách nhiệm bồi thường của cha mẹ là trách nhiệm pháp lý, không cần điều kiện lỗi của cha mẹ trong việc giám sát hành vi của con mình. Quy định này còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn là đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại, giup họ được bồi thường theo nguyên tắc toàn bộ và kịp thời. Việc lấy tài sản riêng của con bồi thường phần còn thiếu nếu tài sản của cha mẹ không đủ là nhằm kịp thời khắc phục thiệt hại cho người bị thiệt hại nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ chứ không có ý nghĩa là trách nhiệm bồi thường thiệt hại được chuyển sang cho con và triệt tiêu trách nhiệm của cha mẹ. Về nguyên tắc, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của con dưới 15 tuổi luôn luôn thuộc về cha mẹ. Trong xã hội ngày nay, nhiều bậc phụ huynh hoặc quá bận rộn, không có thời gian quan tâm chăm sóc, dạy dỗ con cái, hoặc bỏ mặc con không chăm sóc, điều này dễ khiến con trẻ bị dụ dỗ vào những tệ nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm, bạo lực… Quy định của Điều 606 BLDS đã buộc cha mẹ phải có trách nhiệm pháp lý đối với những thiệt hại do con dưới 15 tuổi gây ra, góp phần đề cao trách nhiệm quản lý, chăm sóc con cái của cha mẹ. Tương tự với trường hợp cá nhân dưới 15 tuổi gây thiệt hại, những người bị mất năng lực hành vi dân sự không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do họ gây ra mà cha mẹ người đó phải bồi thường thiệt hại. Người bị mất năng lực hành vi dân sự là những người chưa thành niên hoặc đã thành niên, nhưng không có trí tuệ phát triển như bình thường do bị tâm thân hoặc các bệnh khác khiến họ không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Trên cơ sở của tổ chức giám định, theo yêu cầu của những người có quyền lợi liên quan thì Tòa án có thể tuyên bố một ngươi mất năng lực hành vi dân sự theo trình tự thủ tục luật định. Những người này không thể nhận thức được hành vi của minh do đó cũng không hiểu được hậu quả có thể xảy ra do hành vi của mình, vì vậy họ cần được sự đồng ý của người đại diện khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, và khi họ gây thiệt hại thì cha mẹ là đại diện hợp pháp của họ có trách nhiệm phải bồi thường. Ngoài những lí do kể trên, có lẽ những nhà lập pháp còn xét đến khả năng tài chính của cá nhân gây thiệt hại khi quy định cha mẹ người đó phải bồi thường. Bởi cá nhân dưới 15 tuổi và người bị mất năng lực hành vi dân sự chưa có khả năng lao động, do đó họ cũng không thể có tài sản riêng để thực hiện trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Đối với trường hợp cá nhân dưới 15 tuổi và người bị mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì cha mẹ là người đại diện đương nhiên của họ chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại chiếu theo khoản 1 Điều 606 BLDS. Quy định này cũng đã được cụ thể hóa tại Tiểu mục I mục 3.1 Nghị quyết số 03 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Người giám hộ có trách nhiệm bồi thường Khoản 3 Điều 606 đã quy định: Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Vấn đề này đặt ra với trường hợp người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại nhưng không còn cha mẹ, không xác định được cha mẹ hoặc cha mẹ bị mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự… thì ai sẽ phải bồi thường. Theo điều 606 BLDS thì người giám hộ sẽ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp. Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự. Người giám hộ thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ, do đó họ cũng phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại mà người được giám hộ gây ra. Giám hộ có hai loại là giám hộ đương nhiên và giám hộ cử. Giám hộ đương nhiên được xác định theo quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng, người giám hộ đương nhiên không có quyền từ chối trách nhiệm giám hộ của mình và do vậy họ phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của người được giám hộ. Giám hộ cử được quy định tại Điều 63 BLDS, đặt ra trong trường hợp không có giám hộ đương nhiên.Việc quy định giám hộ không những có ý nghĩa đối với người được giám hộ mà đặt ra trong tình huống gây thiệt hại ngoài hợp đồng thì việc quy kết trách nhiệm bồi thường thiệt hại thay cho người được giám hộ nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại được bồi thường một cách toàn bộ và kịp thời. Theo quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS thì người giám hộ có trách nhiệm dùng tài sản của người được giám hộ bồi thường thiệt hại, trong trường hợp người được giám hộ không có tài sản hoặc tài sản không đủ để bồi thường thì người giám hộ phải dùng tài sản của mình để bồi thường nếu có lỗi trong việc thực hiện trách nhiện của người giám hộ để người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác. Nếu người giám hộ chứng minh được rằng mình không có lỗi trong việc giám hộ thì sẽ không phải bồi thường. Trong trường hợp người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại vẫn thuộc về cha mẹ nếu cha mẹ còn sống, người giám hộ chỉ là người dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường thiệt hại chứ không có trách nhiệm bồi thường thay. Ngoài ra, đối với trường hợp người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự không còn cha mẹ, mà người giám hộ cũng không có lỗi trong việc giám hộ thì người bị thiệt hại không được bồi thường mà được coi là rủi ro. Trường học, bệnh viện và các tổ chức khác có trách nhiệm quản lý cá nhân dưới 15 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường. Theo quy định của Điều 621 BLDS: Cá nhân gây thiệt hại trong thời gian do trường học, bệnh viện tâm thần quản lý thì trường học, bệnh viện phải bồi thường. Nếu cơ quan, tổ chức quản lý chứng minh được họ không có lỗi thì cha, mẹ, người giám hộ phải bồi thường. Quy định này nhằm buộc trường học, bệnh viện đang trực tiếp quản lý phải có trách nhiệm với cá nhân dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế khả năng gây thiệt hại của những người này đồng thời kịp thời xác định trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo quy định tại khoản 2 Điều 606 BLDS, cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi thì phải có trách nhiệm từ bồi thường thiệt hại bằng tài sản riêng của mình, nếu không đủ thì cha mẹ sẽ phải bồi thường phần cón thiếu bằng tài sản của họ. Quy định này là phù hợp với Điều 20 BLDS, quy định rằng người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ nhưng khả năng nhận thức của họ đã phát triển nên ngoài các giao dịch nhằm phục vụ sinh hoạt hàng ngày, họ còn có thể tự mình xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự nếu có tài sản riêng đủ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi tài sản đó. Việc quy định tại Điều 606 BLDS là phù hợp với đời sống xã hội bởi cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có nhận thức phát triển, có người còn có khả năng lao động, tạo ra thu nhập, họ có tài sản riêng và được quyền tự định đoạt tài sản riêng của mình. Xét về tư cách chủ thể thì người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có khả năng chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước phát luật, có thể đứng trước tòa với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn. Pháp luật đã căn cứ vào những điều kiện này để quy định người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi khi gây thiệt hại phải bồi thường bằng tài sản của mình, nếu không đủ thì dùng tài sản của cha mẹ để bù vào phần còn thiếu. Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ở đây thuộc về trực tiếp người gây thiệt hại, còn cha mẹ chỉ có nghĩa vụ bổ sung nếu con không có tài sản hoặc tài sản không đủ để bồi thường. Thực trạng áp dụng pháp luật và đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật Thực tiễn áp dụng pháp luật thông qua một số vụ án Các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã góp phần giải quyết một lượng lớn các vụ án phát sinh trong đời sống xã hội, không chỉ đảm bảo quyền và lợi ích của con người mà còn giữ gìn trật tự xã hội, ổn định và công bằng. Tuy nhiên trên thực tế, việc giải quyết các vụ án gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp bởi quy định của pháp luật còn có vẫn đề chưa hợp lý, việc áp dụng còn chưa triệt để. Một số vụ án được đưa ra như sau: Vụ án thứ nhất: trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cá nhân chưa thành niên dưới 15 tuổi gây ra Tại lớp 4A, Trường trung học phổ thông cơ sở tương lai do cô giáo minh chủ nhiệm bị ốm đột xuất, thầy Hiệu trưởng cho các em học sinh nghỉ học buổi sáng do không có ai dạy thay. Em Quyền rất vui vì hôm đó không thuộc bài cũ, được nghỉ em mừng lắm. Do tính hiếu động, em Quyền đã không về nhà ngay mà lang thang đi chơi. Quyền vừa đi vừa nhặt đá ném chim và ném xuống ao, không may em ném đã trúng mắt phải của bác M, khiến bác phải vào viện điều trị hết 15 triệu đồng. Bố mẹ em Quyền đưa con đến xin lỗi bác M nhưng bác M yêu cầu bố mẹ em phải bồi thường cho bác. Trên đây là nội dung vụ việc và câu hỏi đặt ra là ai phải bồi thường cho bác M . Để xác định ai sẽ là người chịu trách nhiệm bồi thường ( em Quyền không phải chịu trách nhiệm bồi thường) ta cần căn cứ vào thời điểm em Quyền gây thiệt hại. Xét tình huống, em Quyền được nghỉ học đột xuất nhưng không về nhà ngay, trên đường đi chơi em đã gây thiệt hại cho bác M. Như vậy, trường học đã có lỗi trong việc quản lý học sinh khi cô giáo bị ốm mà không có cách khắc phục, đã cho học sinh nghỉ buổi học chính khóa. Do đó, bố mẹ em Quyền hoàn toàn không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi thời gian em Quyền gây thiệt hại thuộc thời gian nhà trường co nghĩa vụ quản lý học sinh. Theo quy định tại Điều 621 BLDs thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về nhà trường, nhà trường sẽ phải bồi thường cho bác M chứ không phải cha, mẹ em Quyền. Vụ án thứ hai: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cá nhân mắc bệnh tâm thần gây ra: Anh Vũ Ngọc H đang ở nhà thì thấy Nguyễn Minh D là hàng xóm xông vào chửi bới: tại sao mày dám bắt nạt em tao? Có giỏi thì ra đây đánh nhau với tao. Anh H bị anh D cầm cây tre vụt tới tấp vào đầu khiến anh bất tỉnh. Anh H được đưa đi cấp cứu và được xác định mất khả năng lao động với tỉ lệ thương tật 8%. TAND huyện X nhận đơn kiện đòi bồi thường của anh H với anh D. Anh Nguyễn Minh D đến tòa án có xuất trình đơn thuốc của bác sĩ xác nhận anh D bị tâm thần phân liêt. Tòa án đã cho trưng cầu giám định về sức khỏe tâm thần với anh D và được xác nhận anh D bị tâm thần phân liệt. sau khi nhận được công văn trên, tại tòa án có 3 quan điểm: - Quan điểm 1 cho rằng anh D khi gây án đã trên 18 tuổi nên phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. - Quan điểm 2 cho rằng mặc dù anh D có lỗi gây thiệt hại về sức khỏe anh H nhưng sau ngày gây thiệt hại thì anh bị tâm thần nên không phải bồi thường, cha mẹ và người giám hộ của anh cũng không phải bồi thường bởi vào thời điểm gây án thì anh D đã trên 18 tuổi. - Quan điểm 3 cho rằng do anh D đánh anh H khi chưa mắc bệnh tâm thần mà bệnh chỉ khởi phát sau ngày đó nên trách nhiệm bồi thường thiệt hạ
Luận văn liên quan