Bài tập Người bào chữa trong tố tụng hình sự

Với tư cách là một ngành luật độc lập, Luật Tố tụng hình sự cũng có những quy tắc chung của hệ thống pháp luật khi vận dụng vào các quan hệ tố tụng hình sự cũng có những biểu hiện đặc thù riêng. Trong các nguyên tắc ấy, có nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bạ can, bị cáo. Việc ghi nhận quyền bào chữa trong Luật Tố tụng hình sự là hoàn toàn cần thiết nhất là trong thời kỳ có nhiều biến đổi như hiện nay. Được ghi nhận trong văn bản pháp luật là Hiến pháp, Điều 132 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “ Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”. Dựa trên tinh thần ấy, Điều 11 Bộ luật TTHS 2003 có dẫn: “ Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Sở dĩ có quy định như trên là vì: Thực hiện quyền bào chữa là để chống lại sự buộc tội hoặc giảm trách nhiệm hình sự, đồng thời quyền bào chữa của người bị tạm gi ữ, bị can, bị cáo cũng là điều kiện cần thiết giúp cơ quan tiến hành tố tụng xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong đó, người bào chữa đóng vai trò hết sức quan trọng. Thông qua người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình. Trong những người tham gia tố tụng hình sự quy định tại chương IV Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì người bào chữa là người có vị trí, vai trò và chức năng đặc biệt. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận pháp lý và thực tiễn tố tụng hình sự vẫn chưa có khái niệm chính thức và thống nhất và về người bào chữa. Đồng thời, những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về phạm vi những người tham gia tố tùng với tư cách người bào chữa còn giới hạn. Hơn nữa, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau nên người bào chữa trong thực tiễn tố tụng hình sự hiện nay chủ yếu là luật sư, còn bào chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chỉ tồn tại trong pháp luật thực định. So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định về người bào chữa thì Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm việc xét xử dân chủ, khách quan, công bằn hơn theo tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ chính trị. Chính vì vậy việc nghiên cứu về Người bào chữa là cần thiết.

doc23 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3046 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài tập Người bào chữa trong tố tụng hình sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề số 9: Người bào chữa trong tố tụng hình sự LỜI MỞ ĐẦU Với tư cách là một ngành luật độc lập, Luật Tố tụng hình sự cũng có những quy tắc chung của hệ thống pháp luật khi vận dụng vào các quan hệ tố tụng hình sự cũng có những biểu hiện đặc thù riêng. Trong các nguyên tắc ấy, có nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bạ can, bị cáo. Việc ghi nhận quyền bào chữa trong Luật Tố tụng hình sự là hoàn toàn cần thiết nhất là trong thời kỳ có nhiều biến đổi như hiện nay. Được ghi nhận trong văn bản pháp luật là Hiến pháp, Điều 132 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “ Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”. Dựa trên tinh thần ấy, Điều 11 Bộ luật TTHS 2003 có dẫn: “ Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Sở dĩ có quy định như trên là vì: Thực hiện quyền bào chữa là để chống lại sự buộc tội hoặc giảm trách nhiệm hình sự, đồng thời quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng là điều kiện cần thiết giúp cơ quan tiến hành tố tụng xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong đó, người bào chữa đóng vai trò hết sức quan trọng. Thông qua người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình. Trong những người tham gia tố tụng hình sự quy định tại chương IV Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì người bào chữa là người có vị trí, vai trò và chức năng đặc biệt. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận pháp lý và thực tiễn tố tụng hình sự vẫn chưa có khái niệm chính thức và thống nhất và về người bào chữa. Đồng thời, những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về phạm vi những người tham gia tố tùng với tư cách người bào chữa còn giới hạn. Hơn nữa, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau nên người bào chữa trong thực tiễn tố tụng hình sự hiện nay chủ yếu là luật sư, còn bào chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chỉ tồn tại trong pháp luật thực định. So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định về người bào chữa thì Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm việc xét xử dân chủ, khách quan, công bằn hơn theo tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ chính trị. Chính vì vậy việc nghiên cứu về Người bào chữa là cần thiết. I. Khái niệm người bào chữa: Trong khoa học pháp lý và thực tiễn tố tụng có những cách hiểu khác nhau về người bào chữa. Có một số quan điểm cho rằng: “Người bào chữa là người giúp đỡ Tòa án trong việc xác định tất cả các tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng Tòa án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật”. Một tác giả khác còn khẳng định rõ hơn rằng người bào chữa là người tham gia tố tụng để giúp đỡ Tòa án. Ngoài ra, cũng có không ít người vẫn quan niệm người bào chữa là “thầy cãi”… Những cách hiểu nói trên là không chính xác, chưa làm rõ được khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng của người bào chữa cũng như chưa phân biệt được người bào chữa với người tiến hành tố tụng, với người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Thật ra, người bào chữa là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Người bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ là người tham gia tố tụng. Từ “tham gia” nói lên tính chất, vai trò của người bào chữa. “Người tham gia” chỉ là người góp phần hoạt động của mình vào một hoạt động chung nào đó, do những chủ thể khác chủ động và chính thức tiến hành. Hơn nữa, người bào chữa không phải là người được nhân danh quyền lực nhà nước và không được sử dụng quyền lực nhà nước như những người tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, cũng không thể đồng nhất khái niệm người bào chữa với người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Ngay trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã có sự phân biệt giữa người bào chữa vời người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Tiêu chí để phân biệt chính là chức năng của họ và đối tượng mà họ bào chữa, bảo vệ. Người bào chữa tham gia tố tụng chủ yếu để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trong khi đó, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự tham gia tố tụng chủ yếu là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Như đã trình bày, người bào chữa không có quyền và lợi ích trong vụ án hình sự. Việc họ tham gia tố tụng bất luận trong trường hợp nào cũng chỉ để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Cơ sở cho sự hiện diện của họ trong tố tụng hình sự xuất phát từ hợp đồng bào chữa giữa họ với người bị buộc tội (hoặc với người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội) và phải được sự chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong trường hợp đặc biệt do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, nếu người bị buộc tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư cử người bào chữa cho họ và dĩ nhiên ngay trong trường hợp này sự tham gia của người bào chữa cũng phải được sự đồng ý của người bị buộc tội. Tuy B ộ luật tố tụng hình sự không nêu khái niệm khái niệm thế nào là người bào chữa, nhưng căn cứ vào quy định tại các Điều 56, 57 và 58 Bộ luật tố tụng hình sự thì, người bào chữa là người được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ, những người khác được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo uỷ quyền mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý. II. Các loại người bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự: Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Bộ luật tố tụng hình sự thì, người bào chữa có thể là: Luật sư, Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân. Hiện nay do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của nhân dân ta còn nhiều mặt hạn chế nên khi nói đến người bào chữa là người ta chỉ nghĩ tới luật sư còn những người khác không phải là luật sư thì không được coi là người bào chữa. Trong quá trình soạn thảo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng có ý kiến đề nghị chỉ quy định luật sư mới là người bào chữa, còn những người khác nếu bào chữa thì quyền và nghĩa vụ của họ như đối với luật sư, nhưng ý kiến này không được chấp nhận vì luật sư là khái niệm nghề nghiệp, còn người bào chữa là khái niệm tố tụng. Luật sư: Một luật sư La Mã cổ đại đã từng nói về người bào chữa ( Luật sư) như sau: “ Sự cao thượng, tính hào hiệp, danh dự, công lý và lòng rộng lượng là những đặc tính phù hợp nhất với bản chất của nghề luật sư, chứ không phải là sự giàu có, niềm vui hoặc thậm chí chính bản thân cuộc sống”. Trong thời đại hiện nay vị trí vai trò của luật sư ngày càng được nâng cao và được trân trọng thật sự. Ở Việt Nam sau khi Luật Luật sư 2006 có hiệu lực thì đội ngũ Luật sư của chúng ta ngày càng được nâng cao cả về chất và lượng. Đối với pháp luật hiện hành, Điều 2 Luật Luật sư quy định: “ Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức”. Bên cạnh đó, Luật luật sư cũng đề cập đến vấn đề tiêu chuẩn của một vị luật sư. Theo đó, Điều 10 Luật sư quy định: “ Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư”. Thêm vào đó, về mặt hình thức, người luật sư còn phải đáp ứng được các điều kiện như: Phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư, gia nhập một Đoàn luật sư nhất định. Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp. Hoạt động nghề nghiệp của luật sư nhằm góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. (Điều 3 Luật luật sư). Người bào chữa bao gồm: Luật sư, Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, Bào chữa viên nhân dân. Tuy nhiên, Luật sư và người bào chữa không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Theo quy định của pháp luật thì luật sư chỉ trở thành người bào chữa khi họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trong tố tụng hình sự, nếu luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì họ tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Bào chữa là một chức năng quan trọng không thể thiếu trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Muốn bào chữa đúng đắn, khách quan trên cơ sở các quy định của pháp luật và thực sự có tác dụng, các luật sư phải có năng lực thực sự, trong đó quan trọng là nắm chắc pháp luật, hiểu biết rõ về những người mà họ đứng ra để bảo vệ. Căn cứ vào khoản 1 và 2 Điều 23 Luật luật sư thì hình thức hành nghề luật sư có hai loại, đó là: Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân. Đó là quy định hết sức thông thoáng đảm bảo họ phát huy hết khả năng và sự cống hiến cho nghề của mình. Điều mà chúng ta quan tâm là khi luật sư tham gia vào hoạt động tố tụng thì phải tuân thủ những quy định gì khác ngoài những quy định trên? Theo Điều 27 Luật luật sư thì: “ 1. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này. 2. Luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa, giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự hoặc giấy chứng nhận người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính (sau đây gọi chung là giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư) khi xuất trình đủ giấy tờ thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới thiệu của tổ chức hành nghề luật sư hoặc của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề đối với trường hợp luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư; b) Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới thiệu của Đoàn luật sư nơi luật sư đó là thành viên đối với trường hợp luật sư hành nghề với tư cách cá nhân; Thẻ luật sư và giấy giới thiệu của cơ quan, tổ chức nơi luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó; c) Thẻ luật sư và văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư hoặc của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc Thẻ luật sư và văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân để tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng”. Như vậy, pháp luật quy định vừa chặt chẽ vừa thông thoáng trên các phương diện để trở thành một luật sư với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ. bị can, bị cáo: Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người cần họ bào chữa. Tuy nhiên, Bộ Luật TTHS không quy định rõ thế nào là “Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Tuy nhiên, có thể vận dụng điểm a khoản 1 Điều 58 Bộ Luật Dân Sự về giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi) để hiểu người đại diện hợp pháp là: Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu. Hoặc người đại diện theo pháp luật bao gồm: Cha, mẹ đối với con chưa thành niên; Người giám hộ đối với người được giám hộ (Điều 141 BLDS). Bào chữa viên nhân dân: Ở nước ta, trước khi có Pháp lệnh tổ chức luật sư và sau là Luật luật sư 2006 thì việc bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo do Bào chữa viên nhân dân đảm nhiệm. Hoạt động bào chữa của Bào chữa viên nhân dân không phải là chuyên nghiệp mà chỉ mang tính chất nghiệp dư. Cho đến bây giờ, trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng chưa có một văn bản cụ thể nào quy định về hoạt động bào chữa của Bào chữa viên nhân dân nên vị trí vai trò của họ cũng trở nên mờ nhạt. Hay nói cách khác, chức danh Bào chữa viên nhân dân chỉ tồn tại trên phương diện pháp lý. Điều này dẫn đến việc người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chủ yếu là luật sư và người đại diện hợp pháp của những người đó. Nói tóm lại, mặc dù họ là ai, pháp luật quy định họ như thế nào thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải có nghĩa vụ tạo điều kiện để họ thực hiện nhiệm vụ bào chữa. Tuỳ theo từng giai đoạn tố tụng, Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án Toà án nhân dân hoặc Hội đồng xét xử cấp Giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện nhiệm vụ bào chữa. III. Những người không được bào chữa, lựa chọn và thay đổi người bào chữa: 1. Những người không được bào chữa: Khoản 2 Điều 56 quy định: “ Những người sau đây không được bào chữa: a) Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó. b) Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc nguời phiên dịch”. Người đã tiến hành tố tụng có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ cả về mặt buộc tội và gỡ tội. Trong khi đó, người bào chữa tham gia tố tụng là nhằm gỡ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho những người này. Một bên đứng trên góc độ Nhà nước và một bên lại đứng trên góc độ cá nhân. Thế nên trong cùng một vụ án, một người không thể thủ một lúc hai vai để thực hiện tốt trách nhiệm chứng minh vụ án và nghĩa vụ bào chữa. Bên cạnh đó, người thân của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng không được là người bào chữa trong vụ án đó bởi nó sẽ ảnh hưởng đến sự khách quan của trong việc giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng. Người làm chứng, người giám định, người phiên dịch là những người tham gia tố tụng có nghĩa vụ trung thực, khách quan đảm bảo tính chính xác. Họ không phụ thuộc vào bất kỳ một bên nào, mà chỉ tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, họ không thể đồng thời là người bào chữa trong cùng một vụ án. 2. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa: Sự tham gia tố tụng của người bào chữa là rất cần thiết, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và hiểu biết của mình, người bào chữa tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Vì vậy, việc quy định lựa chọn và thay đổi người bào chữa trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên tham gia tố tụng. Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “1. Người bào chữa do người bị tạm giữ, bi can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn. 2. Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình: a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật hình sự. b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. … 3. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình”. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. IV. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự: Về quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự: Người bào chữa và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đều là những người tham gia tố tụng hình sự, mặc dù địa vị pháp lý của họ không như nhau nhưng khi tham gia tố tụng họ lại có mối quan hệ ràng buộc “ tương đối” với nhau. Trong đó, người bào chữa thực hiện một lúc hai nghĩa vụ: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và nghĩa vụ tôn trọng sự thật, bảo vệ pháp luật. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là đối tượng của việc điều tra, truy tố, xét xử, là người bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội, khi tham gia tố tụng họ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Một bên cần gỡ tội hoặc giảm tội và một bên giúp bên kia thực hiện mong muốn của mình, có thể họ tìm đến nhau bằng một hợp đồng “ Dịch vụ pháp lý” hoặc bằng cách khác. Vậy người bào chữa thực hiện nghĩa vụ của mình như thế nào để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của những người nhờ họ bào chữa cũng như bảo vệ sự thật và tôn trọng sự thật khách quan? Do đó pháp luật TTHS đã quy định quyền của người bào chữa để họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Theo khoản 1 Điều 58 BLTTHS thì: “ Ngưòi bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra”. Để tạo điều kiện cho người bào chữa tham gia vào hoạt động tố tụng một cách thuận lợi, khoản 2 Điều 58 quy định về quyền của người bào chữa, cụ thể như sau: Người bào chữa có quyền. a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa. Việc người bào chữa có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lý hơn, những người tiến hành các hoạt động điều tra thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa thao dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ điều đó có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng sau này tại phiên toà. Người bào chữ còn có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can khi Điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng có liên quan đến người mà mình bao chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật,người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền. b) Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can”. c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này. Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ theo luật định và xét thấy việc nhũng người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa. d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Người bào chữa có quyền đưa ra t