Bài tập nhóm về luật hình sự đề số 1

Hai chị em A 19 tuổi và B 15 tuổi dùng vàng giả mua xe máy cũ của những người quảng cáo trên báo hằng ngày. Bẳng thủ đoạn đánh tráo vàng thật thành vật giả khi mua bán, hai chị em A và B đã mua được 7 chiếc xe máy. Tổng tài sản chiếm đoạt được có giá trị 121.000.000 đồng. Trong quá trình điều tra phát hiện A là người không có nghề nghiệp, có một tiến án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Hành vi phạm tội của a được quy định tại khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự.

doc12 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 8214 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập nhóm về luật hình sự đề số 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề số 1 Hai chị em A 19 tuổi và B 15 tuổi dùng vàng giả mua xe máy cũ của những người quảng cáo trên báo hằng ngày. Bẳng thủ đoạn đánh tráo vàng thật thành vật giả khi mua bán, hai chị em A và B đã mua được 7 chiếc xe máy. Tổng tài sản chiếm đoạt được có giá trị 121.000.000 đồng. Trong quá trình điều tra phát hiện A là người không có nghề nghiệp, có một tiến án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Hành vi phạm tội của a được quy định tại khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự. Hỏi Căn cứ vào khoản 3 điều 8 BLHS hãy xác định trường hợp phạm tội của A thuộc loại tội phạm nào. Phân tích khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong trường hợp này? Trong vụ án trên A phạm tội thuộc trường hợp tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Vụ án trên có phải là đồng phạm không? Tại sao? MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU NỘI DUNG 1. Căn cứ vào khoản 3 điều 8 BLHS hãy xác định trường hợp phạm tội của A thuộc loại tội phạm nào. 2. Phân tích khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong trường hợp này? 3. Trong vụ án trên A phạm tội thuộc trường hợp tái phạm hay tái phamh nguy hiểm? 4. Vụ án trên có phải là đồng phạm không? Tại sao? KẾT LUẬN LỜI MỞ ĐẦU Tội phạm có thể do một người thực hiện nhưng cũng có thể do nhiều người gây ra. Khi có nhiều người cố ý cùng thực hiện tội phạm thì trường hợp đó được gọi là đồng phạm. Tuy nhiên không phải khi nào cũng cứ có hai người trở lên cùng thực hiện tội phạm thì cấu thành vụ đồng phạm trong một vụ án. Để kết luật có đồng phạm hay không trong một vụ án cần căn cứ vào các dấu hiệu của đồng phạm. Sau đây để góp phần hiểu rõ hơn về trường hợp đồng phạm nói riêng và các vấn đề khác của luật hình sự nói chung nhóm chúng tôi xin đi sâu tìm hiểu tình huống được đưa ra ở đề 1. NỘI DUNG 1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS hãy xác định trường hợp phạm tội của A thuộc loại tội nào? Để phân loại tội phạm cần dựa vào hai tiêu chí: mặt nội dung chính trị xã hội cụ thể là tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và mặt hậu quả pháp lí ở đây là hình phạt đối với hành vi phạm tội đó. Thứ nhất xét về tình nguy hiểm cho xã hội của hành vi trên. Có thể thấy hành vi của A đã thỏa mãn cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139 BLHS. Cụ thể hơn dựa vào mức độ nguy hiểm của hành vi thể hiện ở giá trị tài sản chiếm đoạt là 121.000.000 đồng thỏa mãn tình tiết tăng nặng tại điểm e, khoản 2, Điều 139: “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng”. Như vậy hành vi của A đã cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại khoản 2 Điều 139, BLHS: “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến 7 năm: a) Có tổ chức; b) Có tình chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. Thứ hai xét về khung hình phạt áp dụng cho trường hợp phạm tội của A tại khoản 2 Điều 139 là: “ Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến 7 năm”. Theo quy định này thì mức cao nhất của khung hình phạt này là bảy năm tù. Đối chiếu với khoản 3 Điều 8 BLHS: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù; tội phạm rất nghiệm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tù tử hình”. Ta thấy trường hợp phạm tội của A thuộc loại tội phạm nghiêm trọng được quy định tại khoản 3, điều 8 BLHS: “Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù”. Ở đây mức hình phạt được quy định trong khoản 2, điều 139 BLHS là từ 2 năm đến 7 năm tù. Nếu nhìn vào mức hình phạt này nhiều người sẽ lầm tưởng A có thể thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng hoặc loại tội phạm nghiêm trọng. Tuy nhiên trên cơ sở quy định của luật hình sự thì phải dựa vào mức hình phạt cao nhất của tội phạm ấy để định loại tội, vì vậy không thể dựa vào mức hình phạt thấp nhất để định loại tội của A trong trường hợp này. Vì vậy A thuộc loại tội phạm nghiêm trọng được quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS. 2. Phân tích khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong trường hợp này? - Khách thế của tội phạm trong trường hợp này là quan hệ sở hữu được pháp luật hình sự bảo vệ: Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định trong Điều 8 BLHS. Hành vi bị coi là tội phạm, theo luật hình sự Việt Nam, là hành vi gây thiệt hại cho một trong những quan hệ xã hội được xác định đó. Khoản 1 Điều 8 BLHS quy định: “1.Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tình mạng sức khỏe của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.” Nhưng như vậy không có nghĩa hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội này trong mọi trường hợp đều bị coi là tội phạm mà chỉ trong những trường hợp nhất định – những trường hợp đã được cụ thể hóa qua những quy phạm pháp luật hình sự ở phần các tội phạm của BLHS Trong tình huống này khách thể của tội phạm là quan hệ sở hữu được pháp luật hình sự bảo vệ. Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trong đó chủ sở hữu đối với tài sản được pháp luật bảo vệ các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt một cách tuyệt đối. Các tội phạm xâm phạm sở hữu là những hành vi gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này phản ánh được đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Quan hệ sở hữu bao là quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản được pháp luật tôn trọng bảo vệ. Quyền sở hữu còn là một quyền năng tuyệt đối được pháp luật công nhận và bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là những hành vi xâm phạm các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Trong tình huống trên hai chị em A và B đã dùng vàng giả mua xe máy cũ của những người đăng quảng cáo trên báo hằng ngày. Hai chị em A và B đã có hành vi lừa dối đánh tráo vàng thật thành vàng giả và chiếm đoạt được 7 chiếc xe máy với tổng tài sản chiếm đoạt được là 121.000.000 đồng. Rõ ràng hành vi đó đã xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của các chủ sở hữu xe, làm cho họ mất đi quyền năng của mình đối với tài sản mà họ là chủ sở hữu. Vì tin vào những thông tin mà hai chị em A đưa ra mà cụ thể ở đây là tin vào số vàng được giao là vàng thật nên các chủ sở hữu xe máy đã giao tài sản của mình cho hai chị em A và B. Thời điểm nhận được tài sản cũng là lúc người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã làm chủ được tài sản chiếm đoạt mà người bị lừa dối mất khả năng làm chủ tài sản đó trên thực tế. Với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản coi là hoàn thành vào thời điểm này – thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác so với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản. đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không quy định thiệt hại về tình mạng, sức khỏe là tình tiết định khung hình phạt. - Đối tượng tác động của tội phạm trong trường hợp này: Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đối tượng tác động của tội phạm là một yếu tố quan trọng không thể không nhắc tới khi tìm hiểu khách thể của tội phạm. đối tượng tác động của khách thể có thể là: con người, các đối tượng vật chất và hoạt động bình thường của chủ thể. Trong tình huống này đối tượng tác động của tội phạm là các đối tượng vật chất với ý nghĩa là khách thể của quan hệ xã hội. Trong những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, có những quan hệ xã hội bị tội phạm gây thiệt hại qua việc làm biến đổi tình trạng bình thường của những đối tượng vật chất như quan hệ sở hữu… tất cả những hành vi làm biến đổi tình trạng bình thường của tài sản một cách trái pháp luật đều là những hành vi gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu. Sự làm biến đổi tình trạng này có thể do những loại hành vi khác gây ra như hành vi chiếm đoạt, hành vi chiếm giữ, hành vi sử dụng, hành vi hủy hoại hay làm hư hỏng… Cụ thể trong tình huống này đối tượng tác động của tội phạm chính là quan hệ sở hữu mà cụ thể hơn là quan hệ sở hữu đối với 7 chiếc xe máy bị hai chị em A và B lừa đảo chiếm đoạt. 3. Trong vụ àn trên A phạm tội thuộc trường hợp tái phạm hay tài phạm nguy hiểm? Trong vụ án trên A phạm tội thuộc trướng hợp tái phạm. Tại Điều 49 BLHS quy định về tái phạm và tái phạm nguy hiểm như sau: “1. Tái phạm là trường hợp, đã bị kết án chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. 2. nhưng trướng hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại tái phạm do cố ý.” Trong vụ án này A thuộc vào trường hợp tái phạm. Do A đã có một tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích mà lại phạm thêm một tội mới do lỗi cố ý. Hành vi của A đã cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại khoản 2 Điều 139 loại tội mà A thực hiện là loại tội nghiêm trọng và lỗi của A ở đây là lỗi cố ý. Hành vi của A không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm vì theo điểm a Điều 49 thì tái phạm nguy hiểm là: “Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý”. Giả sử tội phạm mà A đã thực hiện trước đó là tội trộm cắp tài sản thuộc khoản 3 là loại tội rất nghiêm trọng hoặc khoản 4 là loại tội đặc biệt nghiêp trọng nhưng tội mà A tài phạm hiện tại thuộc loại tội nghiêm trọng chứ không phải là tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng vì vậy A cũng không thuộc trường hợp tài phạm nguy hiểm. Theo điểm b khoản 2 tội tái phạm nguy hiểm là: “ Đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý”. Ở đây A đã có một tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích như vậy lần phạm tội này của A là lần tái phạm cho nên A không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm được quy định trong điểm b Điều 49 BLHS. 4. Vụ án trên có phải là đồng phạm không? Tại sao? Vụ án trên không phải là đồng phạm. Khoản 1 Điều 20 BLHS quy định về đồng phạm như sau: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Để có thể cấu thành đồng phạm trong một vụ án phải có đủ các dấu hiệu về mặt khách quan và các dấu hiệu về mặt chủ quan. Về mặt khách quan đồng phạm đòi hỏi hai dấu hiệu: có từ hai người trở lên và những người này có đủ các điều kiện của chủ thể của tội phạm và những người này phải cùng thực hiện tội phạm. Về mặt chủ quan đòi hỏi những người cùng thực hiện tội phạm đều có lỗi cố ý. Chỉ cần thiếu một trong những dấu hiệu về mặt chủ khách quan hoặc mặt chủ quan thì không cấu thành đồng phạm trong một vụ án. Ở trong vụ án này A và B không cấu thành đồng phạm của vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì không thỏa mãn dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm mà cụ thể là B không phải là chủ thể của tội phạm được quy định tại khoản 2 Điều 139 BLHS. Có thể thấy trong tình huống này A và B đã cũng nhau thực hiện hành vi dùng vàng giả mua xe máy cũ của những người đăng quảng cáo trên báo hằng ngày. Như vậy vụ án này có 2 người cùng thực hiện hành vi phạm tội. Hai người tham gia này phải đủ điều kiện của chủ thể tội phạm. Theo luật hình sự thì chủ thể tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Người có năng lực TNHS là theo luật hình sự là người đã đạt độ tuổi chịu TNHS ( điều 12 BLHS) và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực TNHS (điều 13 BLHS). Điều 12 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: “1. người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.” Như vậy A đủ điều kiện của chủ thể tội phạm, nhưng B mới 15 tuổi mà phạm tội nghiêm trọng do vậy theo khoàn 2 Điều 12 thì B không phải chịu TNHS về tội nghiêm trọng khi chưa đủ 16 tuổi. Theo luật hình sự Việt Nam người đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Dó đó họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm theo quy định của pháp luật chứ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm. Cụ thể hơn người đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng mà thôi. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với các tội xâm phạm sỡ hữu khác. Tuy nhiên người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 139 Trong tình huống này B mới 15 tuổi và phạm tội nghiêm trọng vì vậy cho nên B không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đã phạm. điều đó cũng đồng nghĩa với việc B chưa đủ điều kiện là chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại khoản 2 Điều 139 BLHS. Vì vậy A và B không thỏa mãn dấu hiệu về mặt khách quan là cùng đủ điều kiện của chủ thể tội phạm. Vì vậy vụ án trên không phải là đồng phạm. KẾT LUẬN Đây là những kết luận, đánh giá của nhóm chúng tôi về các vấn đề được đưa ra ở tình huống này dựa trên sự nghiên cứu, tìm tòi bộ môn Luật Hình Sự. Kính mong nhận được sự góp ý, bổ sung của quý thầy cô giáo. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình luật hình sự, Trường đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân. 2. Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009 3. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB công an nhân dân, Hà Nội, 2008 4. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học BLHS Việt Nam, Tập II, NXB. TPHCM, 2004 5. Trường Đại học Luật Hà Nội, Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb.CAND, Hà Nội, 2001.
Luận văn liên quan