A làm quen với B trên mạng. Sau vài lần trò chuyện, A ngỏ lời yêu B và hẹn B đi chơi, B nhận lời. Được B nhận lời mời đi chơi, A có ý định hiếp dâm B nên gọi điện cho N, V, Q và rủ 3 tên cùng thực hiện tội phạm. Sau khi đưa nạn nhân đến chỗ vắng, cả 4 tên thay nhau thực hiện hành vi hiếp dâm nạn nhân nhiều lần.
Câu hỏi:
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội hiếp dâm.
2. Xác định khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án.
3. Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm hình thức? Giải thích rõ tại sao.
4. A, N, V, Q có phải là những người đồng phạm không? Giải thích rõ tại sao.
5. Hãy xác định loại người đồng phạm trong vụ án và giải thích rõ tại sao.
6. Giả thiết Q chỉ có hành vi giữ tay chân B để 3 tên A, N, V giao cấu với nạn nhân. Có ý kiến cho rằng A, N, V là người thực hành, còn Q là người giúp sức. Vậy ý kiến của anh chị thế nào? Giải thích rõ tại sao.
10 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3468 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập tình huống hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ BÀI:9
A làm quen với B trên mạng. Sau vài lần trò chuyện, A ngỏ lời yêu B và hẹn B đi chơi, B nhận lời. Được B nhận lời mời đi chơi, A có ý định hiếp dâm B nên gọi điện cho N, V, Q và rủ 3 tên cùng thực hiện tội phạm. Sau khi đưa nạn nhân đến chỗ vắng, cả 4 tên thay nhau thực hiện hành vi hiếp dâm nạn nhân nhiều lần.
Câu hỏi:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội hiếp dâm.
Xác định khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án.
Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm hình thức? Giải thích rõ tại sao.
A, N, V, Q có phải là những người đồng phạm không? Giải thích rõ tại sao.
Hãy xác định loại người đồng phạm trong vụ án và giải thích rõ tại sao.
Giả thiết Q chỉ có hành vi giữ tay chân B để 3 tên A, N, V giao cấu với nạn nhân. Có ý kiến cho rằng A, N, V là người thực hành, còn Q là người giúp sức. Vậy ý kiến của anh chị thế nào? Giải thích rõ tại sao.
BÀI LÀM:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS phân loại tội phạm đối với tội hiếp dâm:
Tội phạm tuy có các dấu hiệu chung là: những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt nhưng những hành vi tội phạm cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất khác nhau. Do có những sự khác nhau đó nên khoản 3, Điều 8 BLHS năm 1999 đã phân tội phạm ra thành 4 nhóm tội phạm khác nhau : “ “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt của tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”
Như vậy, tương ứng và phù hợp với bốn mức độ nguy hiểm cho xã hội đã được phân hóa như trên là bốn mức cao nhất của khung hình phạt: đến ba năm tù (đối với tội ít nghiêm trọng); đến bảy năm tù (đối với tội nghiêm trọng); đến mười lăm năm tù (đối với tội rất nghiêm trọng); đến trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (đối với tội đặc biệt nghiêm trọng). Có thể thấy, các nhóm tội phạm được phân biệt với nhau bởi cả dấu hiệu về mặt nội dung chính trị, xã hội và cả dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lý.
Tội hiếp dâm được các nhà làm luật ấn định tại Điều 111 của BLHS, thực tiễn đã thừa nhận tất cả các hành vi hiếp dâm khi xảy ra đều có chung đặc điểm đó là hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân. Tuy nhiên, với mỗi hành vi phạm tội lại có tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau BLHS có sự quy định hình phạt khác nhau. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS và những cơ sở đã phân tích trên kia, ta phân loại tội phạm đối với tối hiếp dâm như sau:
Xét khoản 1 điều 111 BLHS quy định về tội hiếp dâm: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bày năm.” Vì mức cao nhất của khung hình phạt là đến 7 năm tù, nghĩa là bằng với mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm nghiêm trọng. Đồng thời, đây là tội có tính nguy hại lớn cho xã hội nên trường hợp phạm tội theo khoản 1 điều 111 BLHS thuộc loại tội phạm nghiêm trọng.
Xét khoản 2 điều 111 BLHS: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a, Có tổ chức;
b, Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
c, Nhiều người hiếp một người;
d, Phạm tội nhiều lần;
đ, Đối với nhiều người;
e, Có tính chất loạn luân;
g, Làm nạn nhân có thai;
h, Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
i, Tái phạm nguy hiểm.”
Dễ thấy, tại khoản 2 điều 111 thì mức cao nhất của khung hình phạt là đến mười lăm năm tù, nghĩa là bằng với mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm rất nghiêm trọng được quy định tại khoản 3 điều 8 BLHS. Do đó, trường hợp phạm tội theo khoản 2 điều 111 BLHS thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.
Xét khoản 3 điều 111 BLHS: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a, Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
b, Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
c, Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.”
Mức cao nhất của khung hình phạt được quy định tại khoản này là tù chung thân, kết hợp với khoản 3 điều 8 thì xác định trường hợp phạm tội theo khoản 3 điều 111 BLHS thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Xét khoản 4 điều 111 BLHS: “Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại khoản đó”. Nhận thấy, đoạn 1 khoản 4 Điều 111 BLHS quy định cho hành hiếp dâm đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có mức cao nhất là đến mười năm tù, như vậy nếu căn cứ theo khoản 3 Điều 8 BLHS thì hành vi hiếp dâm được quy định tại đoạn 1 khoản 4 Điều 111 BLHS thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.
Xét khoản 5 điều 111: “người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Đây được coi là hình phạt bổ sung.
2. Khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án:
Khách thể của tội phạm được hiểu là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.
Theo luật hình sự Việt Nam , những quan hệ được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định tại khoản 1 Điều 8 BLHS, bao gồm: “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội , quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chũ nghĩa.”
Đối chiếu với tình huống trên, A, N, V, Q đã có hành vi hiếp dâm B nhiều lần, có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe và nhân phẩm, danh dự của nạn nhân. Do đó khách thể của tội phạm trong trường hợp này chính là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Các bộ phận của khách thể có thể bị tác động là: chủ thể của các quan hệ xã hội; nội dung của các quan hệ xã hội (là hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội); đối tượng của các quan hệ xã hội (là các sự vật khác nhau của thế giới bên ngoài cũng như các lợi ích mà qua đó các quan hệ xã hội phát sinh và tồn tại.
Đối chiếu với tình huống trên, 4 tên A, N, V, Q đã tác động vào chính cơ thể của B (hiếp dâm B). Như vậy, đối tượng tác động trong trường hợp này chính là con người (những người đang sống, đang tồn tại với tư cách là thực thể tự nhiên và xã hội).
3. Cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm:
Cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức là hai dạng của cấu thành tội phạm khi phân loại cấu thành tội phạm dựa vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan. Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Trong luật hình sự, hiếp dâm là tội phạm có cấu thành hình thức. Tội phạm hoàn thành khi chủ thể chỉ cần dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực để ép người khác quan hệ tình dục trái ý muốn với mình. Trong BLHS tại Điều 111 quy định có tội này khi có 2 hành vi khách quan:
- Hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng ko thể chống cự của nạn nhân.
- Hành vi giao cấu trái ý muốn với nạn nhân.
Như vậy tội hiếp dâm có thể được xác lập khi có hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân đã được thực hiện, tức là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại tới quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ đã xảy ra mà không nhắc đến hậu quả phát sinh sau đó. Hậu quả có thể là những ảnh hưởng đối với sức khỏe, nhân phẩm, thậm chí dẫn đến cái chết cho nạn nhân… Do đó, tội hiếp dâm là tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức.
4. A, N, V, Q có phải là những người đồng phạm không? Giải thích rõ tại sao.
Khoản 1 Điều 20 BLHS quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cùng thực hiện một tội phạm”. Muốn xác định A, N, V, Q có phải là đồng phạm hay không thì phải xét các dấu hiệu của đồng phạm. Những dấu hiệu của đồng phạm bao gồm: những dấu hiệu về mặt khách quan và những dấu hiệu về mặt chủ quan. Dấu hiệu về mặt khách quan: Có từ hai người trở lên và những người này có đủ các điều kiện của chủ thể của tội phạm. Đồng thời, những người này phải cùng thực hiện tội phạm (cố ý).
Xét tình huống hiếp dâm trên: Trước hết, có 4 người cùng thực hiện hành vi phạm tội. A, V, N, Q đều đã thỏa mãn điều kiện chủ thể của tội phạm, tức là cả bốn tên đều có năng lực trách nhiệm hình sự và đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS. Đồng thời A, V, N, Q cũng thỏa mãn điều kiện của chủ thể đặc biệt cho loại tội hiếp dâm( đều là nam giới). Thứ 2, A, V, N, Q đã cùng thực hiện việc hiếp dâm B, dùng vũ lực để giao cấu trái với ý muốn của B, tất cả những hành vi của A, V, N, Q được thực hiện trong sự thống nhất chung với nhau từ trước. Như vậy, các dấu hiệu về mặt khách quan của đồng phạm trong vụ án này đã đầy đủ.
Dấu hiệu thuộc mặt chủ quan: Về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội phạm đều có lỗi cố ý. Ngoài ra, đối với những tội có dấu hiệu mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện phải có cùng mục đích phạm tội đó.
Xét tình huống: “A có ý định hiếp dâm B nên gọi điện cho N, V, Q và rủ ba tên cùng thực hiện tội phạm. Sau khi đưa nạn nhân đến chỗ vắng, cả bốn tên thay nhau thực hiện hành vi hiếp dâm nạn nhân nhiều lần.” Như vậy, về lý trí thì cả bốn tên đều biết hành vi hiếp dâm B là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại tới quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, chúng đã cùng nhau lập kế hoạch thực hiện việc hiếp dâm B. Còn về mặt ý chí, A, V, N, Q đã có hành vi rủ rê, lập kế hoạch tức là đã có sự liên kết trong việc thực hiện tội phạm, có nghĩa là cả bốn tên đều mong muốn cùng thực hiện hành vi hiếp dâm B xảy ra. Tất cả các hành vi của A, V, N, Q đều xuất phát từ ý chí của từng người. Đây là các biểu hiện của lỗi cố ý trực tiếp. Trong trường hợp này, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc.
Tổng hợp những phân tích trên cho thấy hành vi của A, V, N, Q là hành vi đồng phạm.
5. Xác định loại người đồng phạm trong vụ án và giải thích rõ tại sao.
Có 4 loại người đồng phạm là: người thực hành, người tổ chức, người xúy dục, người giúp sức. Khoản 2 Điều 20 quy định: “Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm”.
Xét tình huống ta thấy: A chủ động gọi điện cho V, N, Q và rủ ba tên này hiếp dâm B. Q, V, N có tham gia thỏa thuận, lập kế hoạch nhưng hành vi của Q, V, N chỉ ở thế bị động, tức là ý chí của Q, N, V không tự phát sinh âm mưu hiếp dâm B, mà âm mưu này do A gợi ra cho bọn chúng. Do đó, A chính là chủ mưu trong vụ hiếp dâm hay A chính là người tổ chức trong vụ hiếp dâm này.
Cả bốn tên A, V, N, Q đều trực tiếp tham gia hiếp dâm B, tức là cả bốn tên đều có hành vi dùng vũ lực và giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân, các hành vi này đã được mô tả trong cấu thành tội phạm. Do đó, cả 4 tên đều là người thực hành (trong đó, A vừa là người tổ chức vừa là người thực hành).
Giả thiết Q chỉ có hành vi giữ tay chân B để 3 tên A, N, V giao cấu với nạn nhân. Có ý kiến cho rằng A, N, V là người thực hành, còn Q là người giúp sức. Vậy ý kiến của anh chị thế nào? Giải thích rõ tại sao.
A, V, N đã thực hiện hành vi giao cấu với nạn nhân, như vậy hành vi của A, V, N đã thỏa mãn các đặc điểm của người thực hành được miêu tả tại khoản 2 Điều 20. Đồng thời theo vụ án A còn là người tổ chức. Chính vì vậy, trong vụ án này thì A là người giữ hai vai trò vừa là người thực hành và vừa là người tổ chức; còn V, N chỉ là người thực hành.
Xét vai trò của Q theo giả thiết trên: Q chỉ giữ chân tay của B, mà không thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn nạn nhân nên đã có ý kiến cho rằng Q chỉ là người giúp sức. Tuy nhiên, theo tôi thì Q không thể là người giúp sức, mà chính là người thực hành trong vụ án.
Xét khoản 2 điều 20 quy định về đồng phạm ta thấy : “Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm” còn “người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm”. Dễ thấy, Q hoàn toàn không có dấu hiệu hành vi của người giúp sức, Hành vi giữ chân tay B của Q là hành vi dùng vũ lực trực tiếp thực hiện tội phạm mà ở người giúp sức thì không thể có điều này. Đồng thời, trong đồng phạm , là người thực hành thì không đòi hỏi mỗi người phải thực hiện trọn vẹn hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm mà có thể mỗi người chỉ thực hiện một phần hành vi đó. Trong vụ án trên, Q đã giữ chân tay để B không thể chống cự để ba tên kia thực hiện giao cấu trái ý muốn nạn nhân. Có nghĩa là, B đã thực hiện một phần hành vi được miêu tả tại khoản 1 Điều 111 về tội hiếp dâm: “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực”. Do đó, tuy hành vi của Q không thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tội hiếp dâm nhưng đã thực hiện một phần hành vi và trực tiếp tác động đến cơ thể của nạn nhân.
. Với những phân tích ở trên, ta có thể khẳng định Q không phải là người giúp sức mà là người thực hành trong vụ án.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2009
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, phần chung – Đinh Văn Quế.
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, tập II , bình luận chuyên sâu – Đinh Văn Quế.
Sách chuyên khảo sau Đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (phần chung) – TSKH, PGS Lê Văn Cảm.
Tội phạm và cấu thành tội phạm – Nguyễn Ngọc Hòa, NXB CAND.
các trang web: