Bài thảo luận Sản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng

Ngày nay, cùng với sựphát triển của xã hội nói chung và của nền y học nói riêng đã đem lại nhiều phương pháp mới trong việc phòng ngừa, phát hiện và chữa trịbệnh cảtrên người lẫn trên thú. Có rất nhiều phương pháp mới được nghiên cứu, thửnghiệm và đã đem lại nhiều ứng dụng to lớn. Một trong những phương pháp mới xuất hiện trong thời gian gần đây là sửdụng kháng thể đơn dòng trong việc chuẩn đoán và điều trịbệnh. Kháng thể đơn dòng (monoclonal antibodies-mAb) được sửdụng rộng rãi trong nghiên cứu y sinh học cơbản, trong chẩn đoán bệnh, và trong điều trịcác bệnh nhưbệnh nhiễm trùng và ung thư. Kháng thể đơn dòng là công cụquan trọng được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng nhiều trong các nghiên cứu của họvà đã mang lại nhiều tiến bộvềmặt y tế. Với vai trò quan trọng nhưtrên và tiềm năng vô cùng to lớn trong việc chuẩn đoán, điều trịbệnh. Kháng thể đơn dòng cần phải được nghiên cứu nhiều hơn, sâu hơn đểcó thểkhai thác hết những lợi ích mà nó đem lại. Tuy nhiên, việc hiểu vềkháng thể đơn dòng vẫn còn nhiều hạn chếvì đây là một trong những lĩnh vực còn khá mới mẻ đặc biệt là đối với nước ta. Trong bài viết này, tôi hy vọng sẽ mang lại cho các bạn một vài thông tin cơbản vềkháng thể đơn dòng, mà cụthểlà vềsản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng. Thông qua bài viết này, tôi hy vọng sẽ đem lại cho các bạn cái nhìn cơbản nhất, tổng quát nhất vềkháng thể đơn dòng. Hy vọng rằng bài viết này sẽlà cơsở, là tiền đề đểtừ đó thuận lợi hơn trong những bước đi tiếp trong việc tìm hiểu, nghiên cứu vềkháng thể đơn dòng của các bạn sau này.

pdf21 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3317 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thảo luận Sản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng  Page 1  Trường ĐH Nông Lâm tp Hồ Chí Minh Bộ môn Công Nghệ Sinh Học -----o0o----- CHỦ ĐỀ SEMINAR: SẢN XUẤT VÀ THU NHẬN KHÁNG THỂ ĐƠN DÒNG Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HẢI NGUYỄN VŨ BẢO MSSV:06126009 Thành phố Hồ Chí Minh Tháng 10/2009 Sản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng  Page 2  .......................................................................................................................... B/ ĐẶT VẤN ĐỀ: Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội nói chung và của nền y học nói riêng đã đem lại nhiều phương pháp mới trong việc phòng ngừa, phát hiện và chữa trị bệnh cả trên người lẫn trên thú. Có rất nhiều phương pháp mới được nghiên cứu, thử nghiệm và đã đem lại nhiều ứng dụng to lớn. Một trong những phương pháp mới xuất hiện trong thời gian gần đây là sử dụng kháng thể đơn dòng trong việc chuẩn đoán và điều trị bệnh. Kháng thể đơn dòng (monoclonal antibodies-mAb) được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu y sinh học cơ bản, trong chẩn đoán bệnh, và trong điều trị các bệnh như bệnh nhiễm trùng và ung thư. Kháng thể đơn dòng là công cụ quan trọng được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng nhiều trong các nghiên cứu của họ và đã mang lại nhiều tiến bộ về mặt y tế. Với vai trò quan trọng như trên và tiềm năng vô cùng to lớn trong việc chuẩn đoán, điều trị bệnh. Kháng thể đơn dòng cần phải được nghiên cứu nhiều hơn, sâu hơn để có thể khai thác hết những lợi ích mà nó đem lại. Tuy nhiên, việc hiểu về kháng thể đơn dòng vẫn còn nhiều hạn chế vì đây là một trong những lĩnh vực còn khá mới mẻ đặc biệt là đối với nước ta. Trong bài viết này, tôi hy vọng sẽ mang lại cho các bạn một vài thông tin cơ bản về kháng thể đơn dòng, mà cụ thể là về sản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng. Thông qua bài viết này, tôi hy vọng sẽ đem lại cho các bạn cái nhìn cơ bản nhất, tổng quát nhất về kháng thể đơn dòng. Hy vọng rằng bài viết này sẽ là cơ sở, là tiền đề để từ đó thuận lợi hơn trong những bước đi tiếp trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về kháng thể đơn dòng của các bạn sau này. Sản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng  Page 3  C/TỔNG QUAN: C.I/Khái quát về kháng thể đơn dòng: C.I.1/Kháng thể (antibody) : Kháng thể là những phân tử protein được sản xuất bởi những những tế bào lympho B khi có sự kích ứng đáp ứng miễn dịch bởi kháng nguyên trên cơ thể vật chủ . Có hai loại kháng thể : - Kháng thể đa dòng: Tập hợp các kháng thể đặc hiệu với các epitope khác nhau trên một kháng nguyên cho trước . Trong đáp ứng miễn dịch, cơ thể tổng hợp nhiều kháng thể tương ứng với các epitope của cùng một kháng nguyên :đáp ứng như vậy gọi là đa dòng.  - Kháng thể đơn dòng : chỉ nhận biết một epitope trên một kháng nguyên cho sẵn . Tất cả các kháng thể đơn dòng cùng một dòng thì giống hệt nhau và được sản xuất bởi cùng một dòng tương bào.  Các kháng thể có tính kết hợp đặc hiệu với các kháng nguyên đã kích ứng tạo ra chúng . Đây chính là cơ sở của các phản ứng bảo vệ của cơ thể chống lại tác nhân gây bệnh và của các kỹ thuật chuẩn đoán miễn dịch . Sự tạo thành kháng thể phụ thuộc vào bản chất của kháng nguyên (protein, polysaccharide, … ), phương pháp gây miễn dịch (chất bổ trợ, đường xâm nhập, số lần xâm nhập,… ) và phụ thuộc vào cơ thể vật chủ (tình trạng sức khỏe, tình trạng miễn dịch, dinh dưỡng, tuổi,… ) Các tế bào lympho B là các tế bào sản xuất kháng thể . Mỗi dòng tế bào lympho B chỉ có thể sản xuất một loại kháng thể tương ứng với yếu tố kháng Sản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng  Page 4  nguyên mà chúng nhận diện được . Do mỗi kháng nguyên có nhiều yếu tố kháng nguyên khác nhau nên đáp ứng miễn dịch sẽ tạo thành nhiều loại kháng thể khác nhau, trong trường hợp này ta có kháng thể đa dòng (polyclonal antibody) C.I.2/Kháng thể đơn dòng (monoclonal antibody): Kháng thể đơn dòng (monoclonal antibody – mAb ) là kháng thể được tạo thành từ những tế bào lympho B có nguồn gốc từ một dòng tế bào lympho B. Kháng thể đơn dòng được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu y sinh học cơ bản, trong chẩn đoán bệnh, và trong điều trị các bệnh như bệnh nhiễm trùng và ung thư. Sản xuất mAb yêu cầu phải tiến hành gây kích ứng miễn dịch cho thú, thường là một con chuột, sau đó thu nhận các tế bào sản xuất kháng thể từ lách của nó và dung hợp các tế bào này với tế bào ung thư (như từ các tế bào u tủy myeloma ) để làm cho chúng trở nên bất tử giống như đặc điểm của các tế bào u tủy, điều này có nghĩa là chúng sẽ phát triển và phân chia vô hạn định. Một khối các tế bào hợp nhất được gọi là khối tế bào lai (hybridoma), và các tế bào này sản xuất ra mAb. Sự phát triển của hybridoma bất tử đòi hỏi việc sử dụng động vật. Việc thay thế không dùng động vật không được phổ biến. Một nhà nghiên cứu, người muốn nghiên cứu một protein đặc biệt hoặc những phân tử khác, đã chọn một dòng tế bào hybridoma để sản xuất mAb mà phản ứng một cách mạnh mẽ với protein hoặc phân tử đó. Các tế bào phải phát triển và nhân lên để tạo thành một dòng tế bào mà sẽ sản xuất ra mAb mong muốn . Có hai phương pháp để phát triển các tế bào này: tiêm chúng vào khoang màng bụng của một con chuột hoặc dùng trong kỹ thuật nuôi cấy tế bào in vitro. Khi tiêm vào một con chuột, các tế bào hybridoma sẽ nhân lên và sản xuất ra dịch lỏng (bệnh cổ trướng) ở bụng của nó. Dịch lỏng này có chứa một nồng độ cao kháng thể. Sản xuất kháng thể bằng phương pháp dịch tràn ổ bụng ở chuột thì rẻ tiền, dễ thực hiện, và quen thuộc . Tuy nhiên, nếu tích tụ quá nhiều dịch lỏng hoặc nếu hybridoma là một bệnh ung thư độc, chuột sẽ trải qua đau đớn hoặc nguy hiểm. Nếu một quy trình sản xuất gây đau đớn hoặc nguy hiểm với động vật, thì nên điều chỉnh để tìm kiếm các lựa chọn thay thế. Một trong những giải pháp thay thế là gia tăng số lượng những tế bào hybridoma trong môi trường nuôi cấy tế bào. Kĩ thuật này yêu cầu một số kiến thức chuyên môn, những phương tiện, thiết bị đặc biệt, có thể tốn kém về mặt tiền bạc và mất nhiều thời gian . Hiện Sản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng  Page 5  đã có một số nghiên cứu đáng kể trong kĩ thuật nuôi cấy tế bào in vitro cho sự phát triển hybridoma, và những phương pháp mới hơn này ít tốn kém hơn, nhanh hơn, và sản xuất kháng thể ở một nồng độ cao hơn so với những phương pháp trước đây. C.II/ Quá trình sản xuất kháng thể đơn dòng: Quy trình sản xuất kháng thể được tóm tắt ở sơ đồ bên dưới : C.II.1/ Sự hình thành tế bào lai hybridoma: ( Dòng tế bào bất tử sản xuất kháng thể đơn dòng ) Sự sản xuất kháng thể đơn dòng bao gồm: phương pháp in vivo, in vitro hoặc kết hợp cả hai phương pháp . Trước khi sản xuất kháng thể bằng phương pháp in vivo hoặc in vitro, những tế bào lai mà sẽ làm nhiệm vụ sản xuất kháng thể được tạo ra Các bước sản xuất những tế bào lai này được mô tả ở sơ đồ bên dưới . Sản xuất kháng thể đơn dòng-những tế bào sản xuất được sử dụng đối với động vật, thường sử dụng chuột. Phương pháp này cung cấp một dòng tế bào có khả năng sản xuất một loại kháng thể trong một giai đoạn dài. Một khối u từ dòng tế bào”bất tử” thì được gọi là một hybridoma Không có phương pháp sản xuất tế bào lai hybridima nào mà không sử dụng động vật. Gần đây, kỹ thuật in vitro cho phép sản xuất những phần kháng thể gắn Sản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng  Page 6  kháng nguyên bên trong tế bào, nhưng kỹ thuật này vẫn đang được thử nghiệm và kết quả, và chức năng chưa chắc chắn (Frenken và cộng sự 1998). Nó cũng có thể thay đổi nhiều về mặt di truyền của kháng thể đơn dòng chuột sản xuất với trình tự gen người, giảm tính sinh miễn dịch của kháng thể đơn dòng đã định trước cho việc điều trị bệnh trên người. Trước khi đến phương pháp hybridoma, các nhà nghiên cứu chỉ có thể sản xuất huyết thanh kháng thể đa dòng. Một số lương lớn những nhu cầu về động vật được chủng ngừa và không làm bất tử tế bào sản xuất kháng thể, vì vậy nó yêu cầu phải lặp đi lặp lại trên động vật dùng để thu được nhiều kháng thể hơn. Phát triển kỹ thuật tế bào lai hybridoma làm giảm một số lượng lớn động vật (chuột, thỏ, …) cần thiết để sản suất kháng thể. Bước 1: gây miễn dịch trên chuột và lựa chọn những con chuột hiến để sản xuất tế bào lai hybridoma Chuột được gây miễn dịch với một kháng nguyên đã được chuẩn bị cho việc tiêm hoặc nhũ hóa kháng nguyên với tá chất Freund hoặc những tá chất khác hoặc bằng một miếng mỏng dạng gel đồng nhất có chứa kháng nguyên. Những tế bào nguyên vẹn, bao gồm cả màng và những vi sinh vật thì thường được dùng như là những kháng nguyên. Ở hầu hết tất cả các phòng thí nghiệm, chuột được sử dụng để sản xuất kháng thể mong muốn. Thường thì, chuột được gây miễn dịch 2-3 tuần một lần nhưng phương pháp gây miễn dịch biến đổi giữa các nhà nghiên cứu. Khi hàm lượng kháng thể tạo ra đủ lớn. Chuột đã có đáp ứng miễn dịch mạnh sẽ được gây mê và thu lấy lách để chọn lọc dòng tế bào lympho chuyên biệt dùng cho việc lai với tế bào ung thư myeloma. Bước 2: sự lựa chọn chuột để sản xuất kháng thể Sau một vài tuần gây miễn dịch, mẫu máu thu được từ chuột để đo lượng kháng thể huyết thanh. Một vài kỹ thuật nhân đạo được phát triển để thu tập một thể tích nhỏ máu từ chuột (Loeb and Quimby 1999). Độ chuẩn của kháng thể huyết thanh được xác định bởi nhiều kỹ thuật khác nhau, như enzyme-linked immunosorbent assay (ELISA) và phép chẩn đoán số lượng DNA trong tế bào( flow cytometry). Nếu độ chuẩn của kháng thể cao, sự hợp nhất có thể được thực hiện. Nếu độ chuẩn của kháng thể thấp, chuột có thể tăng lên cho tới khi phản ứng đủ là được, vì vậy việc xác định mẫu máu được lặp đi lặp lại nhiều lần. Khi độ chuẩn của kháng thể đủ cao, chuột thường tăng bằng cách tiêm kháng nguyên không có tá dược trong màng bụng hoặc trong tĩnh mạch (theo tĩnh mạch đuôi) 3 ngày trước khi hợp nhất nhưng 2 tuần sau lần gây miễn dịch đầu tiên. Sau đó, chuột bị giết và lách của chúng được lấy ra để sản xuất tế bào lai hybridoma bằng phương pháp in vitro. Bước 3: Chuẩn bị tế bào ung thư tủy xương Myeloma Sự dung hợp những tế bào lách sản xuất kháng thể, mà có thời gian tồn tại giới hạn, với những tế bào ung thư tủy bất tử (myeloma), kết quả là trong tế bào lai hybridoma có khả năng phát trển không giới han Sản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng  Page 7  Tế bào ung thư tủy xương myeloma là những tế bào bất tử mà được nuôi cấy với 8- azaguanine để đảm bảo tính nhạy cảm của chúng với hypoxanthine-aminopterin- thymidine (HAT) môi trường chọn lọc được dùng sau khi dung hợp tế bào Một tuần trước khi dung hợp tế bào, những tế bào ung thư tủy xương myeloma được cho phát triển trong 8-azaguanine. Các tế bào phải có khả năng sống cao và phát triển nhanh chóng. Môi trường HAT chỉ cho phép những tế dung hợp tồn tại trong một thời gian dài trong môi trường nuôi cấy. Bước 4: Sự hợp nhất giữa tế bào ung thư tủy xương myeloma với tế bào lách của chuột đã được gây miễn dịch: những tế bào lách đơn từ chuột đã gây miễn dịch được hợp nhất với các tế bào ung thư tủy xương myeloma đã được chuẩn bị trước đây. Sự dung hợp được hoàn thành bởi polyethylene glycol, là chất có khả năng làm tan màng tế bào, tạo điều kiện cho tế bào lympho sản xuất kháng thể với tế bào myolema có thể kết hợp lại với nhau và tạo thành tế bào lai hybridoma bất tử. Một chú ý trong bước thứ 3 này là chỉ có những tế bào dung hợp mới phát triển được trong môi trường chọn lọc đặc biệt. Những tế bào này sau đó được phân phối tới đĩa có 96 giếng chứa đựng những tế bào tiếp liệu thu được từ việc rửa màng bụng chuột trong nước muối . Tế bào tiếp liệu được tin rằng để cung cấp các yếu tố phát triển để đẩy mạnh sự phát triển của tế bào lai hybridoma (Quinlan and Kennedy 1994). Việc chuẩn bị thương mại là kết quả từ việc thu gom môi trường giúp cho phát triển trong nuôi cấy tế bào và chứa đựng các yếu tố phát triển có sẵn để có thể sử dụng thay cho các tế bào tiếp liệu thu được từ chuột. Nó cũng có thể được sử dụng cho đại thực bào xuất phát từ tủy xương chuột như những tế bào tiếp liệu (Hoffman and others 1996). Bước 5: Tạo dòng dòng tế bào lai hybridoma bằng “pha loãng có giới hạn” hoặc phát triển và ổn định dòng bằng sản xuất dịch tràn ổ bụng. Điểm mới ở bước này, một nhóm nhỏ các tế bào lai hybridoma từ đĩa 96 giếng có thể phát triển trong nuôi cấy mô theo sau bởi sự lựa chọn cho việc gắn kết kháng nguyên hoặc phát triển bằng phương pháp dịch tràn ổ bụng ở chuột với việc tạo dòng ở thời gian trễ hơn. Tạo dòng bằng “ pha loãng có giới hạn” ở thời điểm đảm bảo phần lớn mỗi giếng chứa tối đa một dòng đơn. Phần lớn các đánh giá là cần thiết ở giai đoạn này lựa chọn tế bào lai hybridoma có khả năng phát triển chống lại tất cả các tế bào dung hợp không thành công nhờ vào sự thưa thớt hoặc không phù hợp trong nuôi cấy in vitro ở nồng độ pha loãng cao. Trong một vài trường hợp, kháng thể tiết ra độc tố để những tế bào yếu ớt được duy trì trong môi trường in vitro. Việc tối ưu hóa phương pháp dịch tràn ổ bụng ở chuột ở giai đoạn này có thể cứu vãn tế bào. Ngoài ra , nó cũng trải qua nhiều giai đoạn ngắn của quá trình phát triển bằng phương pháp dịch tràn ổ bụng chuột sản xuất dòng tế bào trễ hơn in vitro và những giai đoạn của phương pháp in vivo chứng tỏ sức mạnh được gia tăng (enhanced hardiness) và tối ưu sự sản xuất kháng thể (Ishaque and Al- Sản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng  Page 8  Rubeai 1998). Theo nguyên tắc đã đề ra đã công bố đến các cộng sự nghiên cứu trong việc sử dụng phương pháp dịch tràn ổ bụng ở chuột trong những cách đó (Jackson anh Fox 1995). Việc lựa chọn môi trường phát triển có chứa chất ức chế aminopterin, là trở ngại trong con đường tổng hợp nhân tạo. Vì vậy, những tế bào phải sử dụng con đường vòng để tổng hợp acid nucleic, một con đường mà có khuyết điểm trong dòng tế bào ung thư tủy xương để những tế bào sản xuất kháng thể đơn dòng bình thường là dung hợp. Bởi vì cả tế bào ung thư tủy xương myeloma và tế bào sản xuất kháng thể đều sẽ không phát triển một mình, chỉ có tế bào lai là có thể phát triển. Sơ đồ quy trình tạo tế bào lai hybridoma Sản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng  Page 9  C.II.2/ Sản xuất kháng thể đơn dòng bằng phương pháp in vitro: Một thuận lợi chính trong việc sử dụng kháng thể đơn dòng hơn là huyết thanh miễn dịch đa dòng là những tiềm năng sẵn có gồm: hầu hết số lượng lớn các kháng thể đơn dòng đặc hiệu đối với một epitope riêng biệt (một phần của phân tử antigen mà có nhiệm vụ tương tác đặc hiệu giữa kháng nguyên và kháng thể). Thông thường, kháng thể đơn dòng được tìm thấy trong môi trường phát triển của nuôi cấy tế bào lai hybridoma bằng phương pháp in vitro hoặc trong dịch tràn ổ bụng từ chuột được tiêm tế bào lai hybridoma. Kháng thể đơn dòng có thể được làm tinh khiết từ cả hai nguồn trên nhưng thường sử dụng trong môi trường hoặc trong dịch tràn ổ bụng. Trong phương pháp in vitro nên sử dụng cho mục đích sản xuất kháng thể đơn dòng khi việc này là có lý do và thiết thực. Nhiều dụng cụ sẵn có trên thị trường làm phát triển cho sự nuôi cấy in vitro. Những dụng cụ này cần thiết phải thay đổi để tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động của chúng, một số lượng những người trực tiếp sử dụng máy cần thiết phải được đào tạo, sự phức tạp trong quy trình hoạt động, nồng độ cuối cùng của kháng thể đạt được, chi phí, sự điều tiết thể tích dịch. Chi phí của trang thiết bị nên được xem xét trong giá thành của phương pháp sản xuất in vitro. Mỗi dòng tế bào lai hybridoma phản ứng khác nhau đối với môi trường sản xuất in vitro. Trong phần này mô tả phương pháp sản xuất in vitro có sẵn và thảo luận về lợi ích và sự hạn chế của mỗi phương pháp . Sơ đồ tóm tắt các bước trong sản xuất kháng thể đơn dòng bằng phương pháp in vitro: Sản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng  Page 10  C.II.2.1/Phương pháp nuôi cấy khối mô: Phương pháp đơn giản nhất để tiếp cận sản xuất kháng thể đơn dòng bằng phương pháp in vitro là gia tăng nuôi cấy tế bào lai hybridoma thành những khối và làm sạch kháng thể đơn dòng từ môi trường nuôi cấy. Huyết thanh của bò cái đang mang thai đươc sử dụng trong hầu hết môi trường nuôi cấy mô và có chứa khoảng 50 µg/ml globulin miễn dịch của bò. Việc sử dụng huyết thanh trong môi trường nuôi cấy tế bào lai hybridoma có thể giải thích cho một lượng lớn globulin miễn dịch hiện diện trong dịch nuôi cấy (Darby and cộng tác viên 1993). Để tránh sự gây bẩn với globulin miễn dịch của bò, một vài công ty đã phát triển công thức môi trường không có huyết thanh để làm nguồn phát triển của dòng tế bào lai hybridoma (Federspiel và cộng tác viên 1991, Tarleton và Beyer 1991, Velez và cộng tác viên 1986). Trong hầu hết các trường hợp, tế bào lai hybridoma phát triển trong 10% huyết thanh thai bê (FCS) có thể thích nghi trong khooảng thời gian bốn giai đoạn ( 8-12 ngày) để phát triển trong ít hơn 1% FCS hoặc trong môi trường không có FCS. Tuy nhiên, sự thích nghi này có thể kéo dài hơn và trong 3-5% trường hợp tế bào lai hybrydoma sẽ không bao giờ thích nghi với môi trường FCS thấp. Sau khi thích nghi, việc nuôi cấy tế bào cho phép nuôi theo thông thường, sử dụng bình thót cổ nuôi cấy mô dưới điều kiện phát triển chuẩn khoảng 10 ngày. Sản xuất và thu nhận kháng thể đơn dòng  Page 11  Kháng thể đơn dòng sau đó sẽ được thu hoạch từ môi trường. Phương pháp được đề cập trên đây là sản xuất kháng thể đơn dòng ở nồng độ đặc thù là dưới 20 µg/ml. Những phương pháp mà làm tăng nồng độ bằng cách loại bỏ oxy trong môi trường có thể gia tăng khả năng phát triển của tế bào và mật độ phát triển tế bào và vì vậy gia tăng nồng độ kháng thể đơn dòng (Boraston và cộng tác viên 1984, Miller và cộng tác viên 1987). Một số phương pháp đó sử dụng spinner flasks và roller bottles để giữ môi trường nuôi cấy trong lưu thông không đổi và vì vậy cho phép chất dinh dưỡng và chất khí phân phối đều hơn trong môi trường nuôi cấy thể tích lớn (Reuveny và cộng sự 1986, Tarleton và Beyer 1991). Túi mà không khí có thể đi qua được, phát triển khá gần đây, gia tăng độ loại bỏ không khí bằng cách cho phép không khí đi xuyên qua vách của vật chứa môi trường. Tất cả những phương pháp này có thể gia tăng căn bản khả năng sản xuất, nhưng nồng độ kháng thể vẫn giữ nguyên trong tầm vài micrograms mỗi mililit ( Heidel 1997, Peterson và Peavey 1998, Vachula và cộng sự 1995). Hầu hết ứng dụng của những nghiên cứu yêu cầu nồng độ kháng thể đơn dòng từ 0,1-10 mg/ml, cao hơn nhiều so với nồng độ kháng thể đơn dòng trong môi trường nuôi cấy khối mô (Coligan và cộng sự). Nếu kháng thể không tinh sạch đủ cho ứng dụng của nghiên cứu, phương pháp lọc theo ngưỡng trọng lượng phân tử thấp dựa vào sự ly tâm hoặc sự ép của không khí có thể được dùng để gia tăng nồng độ kháng thể đơn dòng. Như một sự lựa chọn, nuôi cấy mô nổi bề mặt có thể được tinh khiết bằng cách cho đi qua cột ái lực protein A và protein G, kháng thể đơn dòng sau đó có thể tách rửa từ cột ở một nồng độ thích hợp cho hầu hết các ứng dụng (Akerstrom và cộng sự 1985, Peterson và Peavey 1998). Tuy nhiên, globulin của bò hay những globulin miễn dịch khác hiện diện trong môi trường nuôi cấy sẽ làm bẩn kháng thể đơn dòng được chuẩn bị. Cả hai bước cô đặc có thể thực hiện trong một ngày hoặc ít hơn với thời gian thực hiện tối thiểu. Tóm lại, phương pháp nuôi cấy khối mô là một công nghệ tương đối đơn giản để thực hiện, có giá thành đầu tư thực hiện tương đối thấp, có thời gian từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc khoảng 3 tuần, điều này gần giống với phương pháp dịch tràn ổ bụng, và làm cho nó có thể sản xuất số lượng kháng thể đơn dòng có thể so sánh được với việc sản xuất bằng phương pháp dịch tràn ổ bụng ở chuột. Điều bất lợi trong những phương pháp này là một thể tích lớn môi trường nuôi cấy mô phải xử lý, nồng độ kháng thể đơn dòng thu được s