Bài thảo luận Tính hai mặt và những mâu thuẫn của thay đổi tổ chức được hoạch định

Mục đích của chúng tôi trong chương này là hai phần. Trước tiên, chúng tôi mô tả nhiều nỗlực thay đổi việc tạo dựng năng lực được hoạch định trong các tổchức (Beer và Nohria, 2000), những vấn đềnày nổi lên và phát triển từgiữa thếkỷXX đến đầu thếkỷXXI. Thứhai, chúng tôi khám phá tính hai mặt và những mâu thuẫn và những tác động của chúng trong mỗi nỗlực thay đổi. Chúng tôi làm nhưvậy đểlàm nổi bật một số động thái ẩn của những phương pháp tiếp cận và đểmởra những khảnăng của sựphát triển rộng hơn và sâu hơn. Vì vậy, chúng tôi cần phải kiểm tra cảlý thuyết và thực hành liên kết với sựthay đổi được hoạch định đểmởra tính hai mặt trong các cách tiếp cận và những mâu thuẫn giữa các giả định của các quan điểm này. Chúng tôi thảo luận vềmột sốphương pháp tiếp cận sựthay đổi tổchức được hoạch định đã được đưa ra trong một khoảng thời gian dài, nhấn mạnh các kiểu thực hiện hành vi và các giả định liên kết với từng phương pháp. Bao gồm nghiên cứu hành động, đào tạo độnhạy , xây dựng đội nhóm, hệthống kỹthuật xã hội và chất lượng cuộc sống trong công việc, chuyển đổi tổchức, các can thiệp nhóm lớn, các tổchức học tập, và đánh giá cao điều tra. Chúng tôi xem xét cảhai phương pháp tiếp cận ởcảhai góc độkhái niệm và thực tế, lưu ý cách thức chúng được thực hiện, và những mâu thuẫn đặc trưng trong quá trình thay đổi của chúng. Trong khi làm điều này, chúng tôi hy vọng sẽtăng cường sựhiểu biết và đánh giá cao của các quá trình dưới đây và tính hai mặt cơbản thường gắn liền với thay đổi tổchức được hoạch định. (Mặc dù những hiểu biết thực nghiệm của thay đổi được hoạch định không phải là một tiêu điểm rõ ràng ở đây, chúng được trình bày bởi Austin và Bartunek, 2003). Chúng tôi tập trung vào tập hợp chung của tính hai mặt và những mâu thuẫn trái ngược nhau, những cái này trởnên rõ ràng khi xem lại cơsởlý thuyết rộng lớn vềthay đổi tổchức được hoạch định. Những tính hai mặt này được ngầm định trong các lý thuyết của thay đổi được hoạch định và trong thực nghiệm quan sát đã được báo cáo trong cơsởlý thuyết. Do đó, tính hai mặt nảy sinh từnhững so sánh giữa các cơsởlý thuyết và tháo bỏnhững giả định được gắn vào trong các cách tiếp cận cụthể. Bất kểtính hai mặt được cải trang nhưlà nền tảng, chúng ảnh hưởng nhưthếnào đến quá trình thay đổi khác nhau được nhận thức và thực hiện. Thông qua việc khám phá các tính hai mặt trong tài liệu này, chúng tôi thiết lập một khuôn khổcho các nghiên cứu vềthay đổi được hoạch định, khuôn khổnày bao trùm những mâu thuẫn làm nền tảng cho những nỗlực thay đổi hơn là việc ưu tiên hình thức này hơn hình thức khác.

pdf41 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1939 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thảo luận Tính hai mặt và những mâu thuẫn của thay đổi tổ chức được hoạch định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TPHCM KHOA SAU ĐẠI HỌC LỚP MBA-08 TÍNH HAI MẶT VÀ NHỮNG MÂU THUẪN CỦA THAY ĐỔI TỔ CHỨC ĐƯỢC HOẠCH ĐỊNH MÔN: QUẢN TRỊ THAY ĐỔI NHÓM 4: 1) NGUYỄN THÀNH SƠN 2) LÊ THỊ BÍCH NGỌC 3) HỨA HOÀNG OANH 4) NGUYỄN KIM NAM (MBA-07) Chương 4 TÍNH HAI MẶT VÀ NHỮNG MÂU THUẪN CỦA THAY ĐỔI TỔ CHỨC ĐƯỢC HOẠCH ĐỊNH Myeong-Gu Seo, Linda L. Putnam & Jean M. Bartunek Mục đích của chúng tôi trong chương này là hai phần. Trước tiên, chúng tôi mô tả nhiều nỗ lực thay đổi việc tạo dựng năng lực được hoạch định trong các tổ chức (Beer và Nohria, 2000), những vấn đề này nổi lên và phát triển từ giữa thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI. Thứ hai, chúng tôi khám phá tính hai mặt và những mâu thuẫn và những tác động của chúng trong mỗi nỗ lực thay đổi. Chúng tôi làm như vậy để làm nổi bật một số động thái ẩn của những phương pháp tiếp cận và để mở ra những khả năng của sự phát triển rộng hơn và sâu hơn. Vì vậy, chúng tôi cần phải kiểm tra cả lý thuyết và thực hành liên kết với sự thay đổi được hoạch định để mở ra tính hai mặt trong các cách tiếp cận và những mâu thuẫn giữa các giả định của các quan điểm này. Chúng tôi thảo luận về một số phương pháp tiếp cận sự thay đổi tổ chức được hoạch định đã được đưa ra trong một khoảng thời gian dài, nhấn mạnh các kiểu thực hiện hành vi và các giả định liên kết với từng phương pháp. Bao gồm nghiên cứu hành động, đào tạo độ nhạy , xây dựng đội nhóm, hệ thống kỹ thuật xã hội và chất lượng cuộc sống trong công việc, chuyển đổi tổ chức, các can thiệp nhóm lớn, các tổ chức học tập, và đánh giá cao điều tra. Chúng tôi xem xét cả hai phương pháp tiếp cận ở cả hai góc độ khái niệm và thực tế, lưu ý cách thức chúng được thực hiện, và những mâu thuẫn đặc trưng trong quá trình thay đổi của chúng. Trong khi làm điều này, chúng tôi hy vọng sẽ tăng cường sự hiểu biết và đánh giá cao của các quá trình dưới đây và tính hai mặt cơ bản thường gắn liền với thay đổi tổ chức được hoạch định. (Mặc dù những hiểu biết thực nghiệm của thay đổi được hoạch định không phải là một tiêu điểm rõ ràng ở đây, chúng được trình bày bởi Austin và Bartunek, 2003). Chúng tôi tập trung vào tập hợp chung của tính hai mặt và những mâu thuẫn trái ngược nhau, những cái này trở nên rõ ràng khi xem lại cơ sở lý thuyết rộng lớn về thay đổi tổ chức được hoạch định. Những tính hai mặt này được ngầm định trong các lý thuyết của thay đổi được hoạch định và trong thực nghiệm quan sát đã được báo cáo trong cơ sở lý thuyết. Do đó, tính hai mặt nảy sinh từ những so sánh giữa các cơ sở lý thuyết và tháo bỏ những giả định được gắn vào trong các cách tiếp cận cụ thể. Bất kể tính hai mặt được cải trang như là nền tảng, chúng ảnh hưởng như thế nào đến quá trình thay đổi khác nhau được nhận thức và thực hiện. Thông qua việc khám phá các tính hai mặt trong tài liệu này, chúng tôi thiết lập một khuôn khổ cho các nghiên cứu về thay đổi được hoạch định, khuôn khổ này bao trùm những mâu thuẫn làm nền tảng cho những nỗ lực thay đổi hơn là việc ưu tiên hình thức này hơn hình thức khác. Chúng tôi bắt đầu chương này bằng việc thảo luận vai trò của tính hai mặt trong việc xây dựng lý thuyết và bằng cách giải thích phương pháp tiếp cận của chúng tôi để xóa bỏ những mâu thuẫn tiềm ẩn trong lý thuyết này. Trước tiên, chúng tôi mô tả ngắn gọn các phát hiện về tính hai mặt trên bề mặt việc xem xét thay đổi được hoạch định. Sau đó, chúng tôi xem lại và tóm tắt các tài liệu về các phương pháp tiếp cận khác nhau đến thay đổi được hoạch định trong ba phần khác nhau, mỗi phần bao gồm một phân tích và phê bình cách quản lý các mâu thuẫn trong những tính hai mặt trong tài liệu này. Thảo luận này được tóm tắt trong bảng 4.1, trong đó trình bày tính hai mặt làm nền tảng cho thay đổi tổ chức được hoạch định và những cách mà các phương pháp tiếp cận khác nhau nhận thức và quản lý. Chúng tôi nhóm các phương pháp tiếp cận thay đổi được hoạch định thành ba “thế hệ” của thay đổi được hoạch định (cf. French và Bell, 1995), chủ yếu dựa vào khi những phương pháp tiếp cận thay đổi được hoạch định cụ thể bắt đầu được thực hiện rộng rãi; và trên một hoặc nhiều giả định phổ biến bên dưới những phương pháp tiếp cận này. Đó là (1) thay đổi được hoạch định thế hệ thứ nhất, bao gồm các nghiên cứu hành động, xây dựng đội nhóm, hệ thống kỹ thuật xã hội, và chất lượng cuộc sống trong công việc; (2) thay đổi được hoạch định thế hệ thứ hai, bao gồm chuyển đổi tổ chức và các can thiệp nhóm lớn; và (3) thay đổi được hoạch định thế hệ thứ ba, bao gồm nghiên cứu tổ chức và yêu cầu đánh giá. Phần lớn những cách tiếp cận thay đổi được hoạch định được gọi là phát triển tổ chức (OD), và chúng tôi sử dụng thuật ngữ này để chỉ chúng. Phương pháp tiếp cận với mỗi giai đoạn tiếp theo được thực hiện trong tổ chức. Một số tính hai mặt và những mâu thuẫn hiện tại trong phương pháp tiếp cận thế hệ đầu tiên cũng tương tự như các phương pháp tiếp cận thế hệ thứ hai và một số khác biệt. Phương pháp tiếp cận thế hệ thứ ba là sự pha trộn thú vị của thế hệ đầu tiên và thế hệ thứ hai, mặc dù chúng cũng thể hiện sự thay thế khác nhau để đánh giá những mâu thuẫn xảy ra từ các tính hai mặt. Tính hai mặt và những mâu thuẫn Tính hai mặt và mâu thuẫn đóng một vai trò quan trọng trong việc thay đổi tổ chức và xây dựng lý thuyết về tổ chức (Cameron, 1986; Cameron và Quinn, 1988; Eisenhardt và Westcott, 1988; Frey, 1995, Ford và Backoff, 1988; Howard và Geist, năm 1995; Isaacs, 1993; O'Connor, 1995; Smith và Berg, 1987; Stohl và Cheney, 2001). Tính hai mặt cho là cực trái ngược thường làm việc chống lại những cực kia, vì vậy, chúng đại diện sự đối lập ở nhiều cấp độ. Tính hai mặt thì không nhất thiết phải mâu thuẫn lẫn nhau. Ví dụ, tổ chức, có thể thực hiện thay đổi được hoạch định ở cả cấp độ cá nhân và tổ chức. Tuy nhiên, vì rất khó khăn để chỉ dẫn các chương trình thay đổi được hoạch định đồng thời ở cả hai cấp, sự phân chia này như là một mâu thuẫn trong việc ra quyết định cho nỗ lực thay đổi được hoạch định. Điều gì là mục tiêu và sự ưu tiên trong việc chinh phục thái cực đối lập trên nền tảng của quá trình xử lý. Vì vậy, các tính hai mặt không dễ thay thế, ví dụ như, phương pháp tiếp cận kỹ thuật hoặc lựa chọn quan điểm nhân văn. Sự lựa chọn phải tập trung vào một trong hai cực tạo ra một mâu thuẫn và rất khó khăn để kết thúc cả hai cực liên tục trong cùng một lúc. Hơn nữa, tính hai mặt tồn tại trong mối quan hệ lưỡng cực mà ngụ ý nhiều mối quan hệ bên trong của mâu thuẫn. Ví dụ, sự chắc chắn và không chắc chắn, là liên kết chặt chẽ với mối quan hệ lưỡng cực giữa dự đoán được và không thể đoán trước, giữa sự mong đợi và sự không mong đợi, giữa thường xuyên và không thường xuyên. Do đó, bất kỳ một tính hai mặt tồn tại trong nhiều hệ thống lớn hơn và tác động lên sự thay đổi được hoạch định thì được hiểu và kiểm soát. Trong chương này, chúng tôi sử dụng tính hai mặt để phản ánh và phê bình các lý thuyết của sự thay đổi được hoạch định. Tương tự như Poole và Van de Ven (1989, trang 562), chương này giả định rằng “khoa học xã hội mất đi một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển lý thuyết” bằng cách bỏ qua các yếu tố không tương thích hoặc không phù hợp với phương pháp tiếp cận cụ thể thay đổi được hoạch định. Không tương thích góp phần xây dựng lý thuyết bằng tín hiệu “sự ẩn ý của giả định và giải thích” mà xác định phạm vi tác dụng cho một tiếp cận (tr. 562). Do đó, một cơ hội lớn trong việc xây dựng lý thuyết là để giải nén các giả định ẩn này, tập trung vào lý thuyết mâu thuẫn, và “sử dụng chúng để kích thích sự phát triển của nhiều học thuyết hoàn thiện” (tr. 563). Sau đó, chương này mở rộng sự mâu thuẫn tổ chức, mâu thuẫn trái ngược và nghịch lý xã hội vào các lý thuyết của sự thay đổi được hoạch định. Nó khác với công việc trước đó không chỉ bằng cách giải nén tính hai mặt qua cách tiếp cận khác nhau, nhưng cũng bằng cách tập trung vào độ lớn của sự thay đổi được hoạch định làm nổi bật lên trong phân tích này. Vì vậy, mục tiêu của chương này là sử dụng tính hai mặt và mâu thuẫn để trích xuất những nền tảng năng động của việc thay đổi được hoạch định và đặt ra những quan điểm mới cho công việc trong lĩnh vực này. Chúng tôi xem xét cách thức khác nhau mà các tổ chức quản lý tính hai mặt và sau đó mô tả tám sự chia đôi nổi bật trong phân tích của chúng tôi về cách tiếp cận khác nhau để thay đổi tổ chức được hoạch định. Bảng 4.1 Các loại và cách thức để quản lý tính hai mặt trong thay đổi tổ chức được hoạch định Tiếp cận OD Tiếp cận OD Tiếp cận OD Thế hệ thứ ba Thế hệ thứ nhất Thế hệ thứ hai Nghiên cứu Yêu cầu đánh giá tổ chức Lựa chọn/từ Sự hợp Biến đổi/ định Sự hợp nhất/ sự Cá nhân/ chối: tập trung nhất/áp lực dạng lại: kết trung hòa: tập nhóm vs. vào nhóm và cá sáp nhập: tập hợp cả hai, tập trung vào cả hai Tổ chức nhân, bỏ qua trung tổ chức trung bằng quá trình, không sự mâu thuẫn rộng lớn hơn cách tạo ra nhận ra những tiềm tàng tập là tập trung những điều mâu thuẫn tiềm ẩn. trung vào tổ vào cá nhân/ khoản và chức lớn. nhóm. phương pháp mới. Bên trong Lựa chọn/ từ Sự phân chia/ Biến đổi/ tổng Sự lựa chọn/ công vs. Bên chối: tập trung quá trình thời hợp: xây dựng khai chọn lựa: ngoài vào các dẫn dắt gian: cả hai năng lực bên quyết định tập nội bộ, bỏ qua dẫn dắt làm trong để giải trung vào các dẫn các áp lực bên việc tại những quyết những dắt bên trong và ngoài. thời điểm khác thách thức bên khả năng cho sự nhau. ngoài. thay đổi. Hệ thống Lựa chọn/ cùng Sự hợp nhất/ Biến đổi/ tổng Sự lựa chọn/ công nhân lực tồn tại: hệ áp lực sáp hợp: phát triển khai chọn lựa: vs. Hệ thống của con nhập: tập hệ thống con quyết định tập thống kỹ người ưu việt trung hơn vào người có thể trung vào hệ thống thuật hơn so với hệ các vấn đề thích ứng với con người như là thống kỹ thuật. chiến lược. chiến lược và phương tiện và kết thách thức về thúc cho sự thay kỹ thuật. đổi. Cấp bậc Lựa chọn/ từ Sự phân chia/ Biến đổi/ định Lựa chọn/ cùng tồn thứ nhất chối: thúc đẩy quá trình thời dạng lại: tập tại: sự thay đổi cấp vs. Cấp sự thay đổi cấp gian: cả hai trung vào việc bậc thứ hai được bậc thứ hai bậc thứ nhất loại xảy ra nghiên cứu ưa thích hơn. hơn là sự thay trong thời gian làm cho cả hai đổi cấp bậc thứ khác nhau, đều có thể hai. nhưng tập thực hiện trung thay đổi được. ở cấp bậc thứ hai trước. Tập trung Lựa chọn/ từ Sự hợp nhất/ Biến đổi/ định Sự lựa chọn/ công thụ động/ chối: tập trung áp lực sáp dạng lại: khai chọn lựa: tập trung vào mặt tiêu nhập: ưu tiên nghiên cứu quyết định tập chủ động cực, bỏ qua hoặc tích cực bao gồm cả trung vào mặt tích mặt tích cực hoặc tiêu cực. hai khía cạnh. cực. Liên tục vs. Lựa chọn/ từ Lựa chọn/ từ Sự hợp nhất/ Lựa chọn/ từ chối: phân đoạn chối: ảnh chối: ảnh áp lực sáp ảnh hưởng mạnh hưởng mạnh hưởng mạnh nhập: tập vào quá trình phân vào quá trình vào quá trình trung vào đổi đoạn. phân đoạn. phân đoạn. mới liên tục để chuẩn bị cho quá trình phân đoạn. Tiên phong Sự phân chia/ Sự phân chia/ Sự hợp nhất/ Lựa chọn/ cùng tồn thực hiện/ ưu thế thời sự: quá trình thời sự trung hòa: tại: với một sở ảnh hưởng chia tách quá gian: cả hai chủ động trong thích mạnh mẽ cho trở lại trình thực hiện quá trình đều việc giúp tổ quá trình chủ động. trước và ảnh nhấn mạnh chức đáp ứng hưởng trở lại. trong thời gian thay đổi với khác nhau. môi trường. Mở vs. Sự lựa chọn/ Sự phân chia/ Sự lựa chọn/ Sự lựa chọn/ công đóng công khai chọn ưu thế thời sự: công khai khai chọn lựa: lựa: nhấn mạnh cả hai quá chọn lựa: quyết định mở. vào các quá trình sử dụng quyết định mở. trình mở. cho các khía cạnh khác nhau hoặc các chủ đề của sự thay đổi. Cách thức quản lý tính hai mặt Lý thuyết về nghịch lý và mâu thuẫn cho thấy bốn loại khác nhau để quản lý tính hai mặt. Các lựa chọn gồm: lựa chọn, phân chia, tích hợp và biến đổi. Đòi hỏi phải lựa chọn từ chối, trong đó, các bên bỏ qua thái cực đối lập và, do đó, vô tình chọn một mặt của sự phân đôi phía trên nửa kia. “Cũng như để vỗ tay thì ta cần phải có hai tay, hai cực đối lập là rất cần thiết” cho sự hiểu biết sự phân đôi ngầm định trong lý thuyết và nghiên cứu (Baxter và Montgomery, 1996, tr. 61). Lựa chọn là cách điển hình nhất mà các nhà lý thuyết quản lý mâu thuẫn, tuy nhiên, nó có thể “tạo ra các phiên bản đặc biệt của lý thuyết” – một số có thể bỏ qua yếu tố chính và mối tương quan của chúng hoặc có thể bỏ qua các mô hình năng động của các hệ thống trái ngược nhau (Poole và Van de Ven, 1989). Miễn cưỡng cùng tồn tại là một biến thể của phương pháp lựa chọn. Trong tùy chọn này, các nhà lý thuyết thừa nhận sự tồn tại của tính hai mặt, nhưng đặt chúng trong mối quan hệ của một “cuộc chiến tranh lạnh” và thường thiên vị một bên hơn so với bên kia. Ví dụ, nhiều nhà lý thuyết nhận thức rằng sự thay đổi có thể được cả hai cùng thực hiện và ảnh hưởng với nhau. Nhưng thay vì khám phá những mối quan hệ giữa những mâu thuẫn, các nhà lý thuyết có thể xem chúng như rời rạc và đe dọa với nhau và đặc quyền bởi hoặc các ảnh hưởng hoặc các quá trình chủ động. Cùng tồn tại là một cách để xác định một trong những đặc tính như đúng và ưa thích. Cách tiếp cận thứ hai, phân chia khác với các lựa chọn trong việc nhận ra cả hai thái cực của tính hai mặt, nhưng phân chia chúng thông qua nhiều mức độ phân tích, lĩnh vực chính, hoặc các quá trình thời gian (Pearson, 2001; Poole và Van de Ven, 1989). Ví dụ, một số nhà lý thuyết kiểm soát những mâu thuẫn giữa các cá nhân/ nhóm và tổ chức rộng lớn thay đổi từ cách tiếp cận chúng ở những cấp độ khác nhau trong phân tích. Một can thiệp thay đổi đặc biệt có thể được mô tả như một cách hoạt động ở cấp độ cá nhân và một cách đối lập ở cấp độ tổ chức hay cơ quan. Một ví dụ khác, tổ chức có thể được mô tả như xử lý những mâu thuẫn giữa mở và đóng quá trình thay đổi, thông qua việc đóng quá trình (không cho phép sự tham gia của nhân viên) trong việc đưa ra quyết định về chính sách thay đổi và dựa vào một quá trình tham gia mở để nhân viên thực hiện các thay đổi chỉ định. Theo cách như thế, các nhà lý thuyết chia mâu thuẫn lưỡng cực bằng cách liên kết chúng vào các chủ đề khác nhau. Vì vậy, các nhà lý thuyết có thể quản lý mâu thuẫn giữa thay đổi nội bộ và thay đổi bên ngoài bằng cách đưa ra các điều chỉnh riêng biệt như chất lượng cuộc sống trong công việc và ấn định chủ đề khác như năng suất với phạm vi hoạt động bên ngoài. Trong thực tế, chất lượng cuộc sống trong công việc và năng suất được xem như là không thể tách rời như các môi trường bên trong và môi trường bên ngoài. Việc chia tách cũng có thể xảy ra trên một mức độ thời gian. Bằng cách này, tính hai mặt có ảnh hưởng tương tự nhau nhưng ở thời điểm khác nhau. Ví dụ, kế hoạch thay đổi có thể được đóng lại và ngăn chặn trong giai đoạn đầu của sự thay đổi và sau đó được mở ra tham gia sau đó. Một trong các phương pháp tiếp cận, các nhà lý thuyết đưa ra tính hai mặt độc lập hơn là kết nối chặt chẽ. Phương pháp chia tách kết hợp cả hai thái cực của tính hai mặt, nhưng trong cách thức mà bỏ qua những mâu thuẫn, phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các cặp lưỡng cực. Như vậy, kết thúc của lưỡng cực liên tục này được coi là lưỡng cực khép kín và về cơ bản thích hợp trong sự cô lập. Hơn nữa, phương pháp chia tách không có hiệu quả đối với hạn chế về khái niệm trong lý thuyết (Poole và Van de Ven, 1989). Đó là, quản lý mâu thuẫn trong sự thay đổi được hoạch định thông qua chuyển dịch mức độ phân tích, lĩnh vực chủ đề, và khoảng thời gian không trợ giúp trong việc giải quyết những thiếu sót hoặc hạn chế trong việc phát triển lý thuyết hoặc thực tiễn. Cách tiếp cận thứ ba, tích hợp là kết hợp tính hai mặt theo một trong hai cách khác nhau – sự trung lập và buộc phải sáp nhập. Trung lập cũng tương tự như sự thỏa hiệp hoặc chia tách sự khác biệt trong việc quản lý mâu thuẫn (Pearson, 2001). Nó dùng để chỉ một sự cân bằng ở cả hai đầu của sự liên tục là hợp lí cùng một lúc nhưng vẫn chưa được hoàn thành trong tổng thể. Ví dụ, trong sự trung lập, phương pháp tiếp cận “ở giữa con đường” để thay đổi được hoạch định, sự can thiệp có thể được xem là biên thực hiện và tác động nhẹ trở lại nhưng đặc điểm thì hoàn toàn được thực hiện trong quan điểm. Từ khi cặp lưỡng cực bị tổn hại và pha loãng, phương pháp này là một phản ứng không ổn định để những mâu thuẫn giữa những cặp với nhau (Baxter và Montgomery, 1996). Các quan điểm buộc sáp nhập song song với phương pháp tiếp cận lựa chọn, trong đó các nhà lý thuyết nhận ra cả hai vị trí, nhưng áp lực và vượt qua chúng trong nhiều cách. Ví dụ, một số phương pháp tiếp cận tam giác của các phương pháp định lượng và định tính, chẳng hạn như kết hợp phân tích điều tra dân tộc học với số lượng dữ liệu khảo sát, tượng trưng cho một loại bị buộc phải sáp nhập trong đó tích hợp các hành vi vi phạm các giả định nhận thức luận của quan điểm chống đối. Hơn nữa, kết quả của sự hợp nhất nhiều lần lặp lại buộc phải lựa chọn cách tiếp cận để quản lý mâu thuẫn trong một bên của thái cực thường kết thúc ở sự lựa chọn cuối cùng. Tính ưu việt, được biết như là sự tổng hợp và định dạng lại, đề cập đến quản lý tính hai mặt thông qua chuyển đổi sự chia đôi vào một quan điểm mới. Rút ra từ biện chứng và bắt nguồn từ những giả định của luận án, phản đề, tổng hợp, những kết quả ưu việt từ sự thay đổi xảy ra khi tính hai mặt ưu việt hơn, vì vậy những mâu thuẫn ban đầu trong số đó không còn tồn tại. Trong việc định dạng lại, định nghĩa khái niệm mới phát sinh. Ví dụ trong các tình huống xung đột, những mâu thuẫn giữa hợp tác và cạnh tranh trở thành định dạng lại khi các bên vượt quá sự khác biệt và phát hiện ra một định nghĩa mới của cuộc tranh luận. Những gì các bên ban đầu có thể gắn nhãn như là một vấn đề quan hệ có thể được chuyển thành sự khác biệt trong phong cách cá nhân. Mặc dù tính ưu việt được công nhận và là hiện thân của cả hai bên cực, bằng cách làm việc hướng tới một tổng hợp hoặc một định nghĩa mới. Do đó, cách quản lý tính hai mặt trở thành những kênh mâu thuẫn và sức mạnh giữa sự phân chia thành một hình thức mới. Cách tiếp cận ưu việt sau đó từ bỏ các cực ban đầu thông qua một hoặc xác định lại tổng hợp duy nhất. Kích thước và tính hai mặt của thay đổi tổ chức được hoạch định Để hiểu làm thế nào tính hai mặt được quản lý trong kế hoạch thay đổi tổ chức, chúng tôi xác định tính hai mặt, kích thước tạo ra, và được lựa chọn đặc biệt hai bên từ lý thuyết thích hợp. Trước tiên, chúng tôi phát triển một danh sách gồm nhiều tính hai mặt được nổi lên hoặc đã được ngầm định trong lý thuyết thay đổi được hoạch định. Trong việc phát triển danh sách này, chúng tôi xem xét cả hai lý thuyết cơ bản và thực hành liên quan của nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau để thay đổi tổ chức được hoạch định. Các tiêu chuẩn được chúng tôi sử dụng để xác định những tính hai mặt này là cả hai khái niệm và lịch sử, chúng tôi tập trung vào việc làm thế nào quan điểm khái niệm khác với việc thay đổi tổ chức được hoạch định diễn ra theo thời gian. Chúng tôi cũng giải quyết cho dù những quan điểm đó đã tạo ra tính không hợp nhau về thực tế hoặc tiềm ẩn và/ hoặc mâu thuẫn trong một thời điểm lịch sử nhất định. Danh sách kết quả bao gồm hai yếu tố mà mối quan tâm đặc trưng chung về thay đổi được hoạch định, các mục tiêu và động lực của sự thay đổi (thay đổi cái gì và khi nào) và đặc điểm của quá trình thay đổi (làm thế nào để thay đổi). Trong giới hạn các kích thước chung, chúng tôi tìm thấy tám cặp lưỡng cực lặp lại trong lý thuyết và gộp những tính hai mặt khác nhau thành một bảng (như được chỉ ra trong bảng 4.1). Do đó, cả hai kích thước và t
Luận văn liên quan