Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU BIỂN VÀ ĐẠI DƯƠNG
Có một ý nghĩa vô cùng quan trọng vì:
Đểhiểu cấu trúc của toàn bộTrái đất cần nghiên cứu
chi tiết đáy đại dương vì:đá trầm tích trong vỏTrái
đất có nguồn gốtừbiển
Phần lớn diện tích đất liền là biển và đại dương
Ngoài ra đáy biển còn có những khoáng sản quý giá:
dầu mỏ, khí đốt, Riêng ởnước ta còn có nhiều
vịnh biển rất đẹptiềm năng kinh tế
57 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4237 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thuyết trình Các quá trình địa chất của biển và đại dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Học phần:
ĐỊA CHẤT ĐẠI CƯƠNG
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU BIỂN VÀ ĐẠI DƯƠNG
Có một ý nghĩa vô cùng quan trọng vì:
Để hiểu cấu trúc của toàn bộ Trái đất cần nghiên cứu
chi tiết đáy đại dương vì:đá trầm tích trong vỏ Trái
đất có nguồn gố từ biển
Phần lớn diện tích đất liền là biển và đại dương
Ngoài ra đáy biển còn có những khoáng sản quý giá:
dầu mỏ, khí đốt,…Riêng ở nước ta còn có nhiều
vịnh biển rất đẹp tiềm năng kinh tế
Vì là bài thuyết trình đầu tiên nên không tránh khỏi sai sót
mong thầy và các bạn góp ý
Bài thuyết trình gồm:
I Khái quát
II Địa hình dưới dáy đại dương
III Thành phần hóa học của nước biển
IV Tính chất vật lý của nước biển
V Đời sống ở biển
VI Sự vận động của nước biển
VII Các quá trình phá hủy
VIII Quá trình vận chuyển
IX Quá trình trầm tích của biển và đại dương
Khái quát
-Biển là vùng nước mặn rộng lớn nối liền các đại dương
hoặc là các hồ lớn chứa nước mặn mà không có dường
thông ra đại dương một cách tự nhiên như: biển Caspi,
biển Chết.
Thuật ngữ này đôi khi cũng được sử dụng với một số
hồ nước ngọt khép kín hoặc có đường thông tự nhiên
ra biển như: biển Galilee ở Israel, Biển Hồ ở
Campuchia
-Đại dương là phần thấp nhất của Trái đất hiện nay, nơi
chứa nhiều nước nhất. có diện tích 361 triệu km2 chiếm
khoảng 70,8% diện tích toàn bộ Trái đất, thể tích 1343
triệu km3 chiếm khoảng 97,5% thể tích của thủy quyển.
II Địa hình dưới đáy đại dương:
Dụa vào sự có mặt của các đai núi lửa, động đất , đai núi lửa
trên lục địa người ta chia làm 2 loại rìa lục địa(thu dong va
tich cuc)
1 Rìa lục địa thụ động:
* Gọi như vậy vì nó được đặc trưng bởi sự vắng mặt động
đất, núi lửa, các đai núi trẻ trên lục địa.
Bao gồm: thềm lục địa, sườn lục địa, chân lục địa, phía
ngoài chân lục địa thường là đồng bằng biển thẳm.
Phân bố: hầu hết ở các lục địa bao quanh Địa Tây Dương,
Ấn Độ Dương, Bắc Băng Dương, và một số nơi ở Thái
Bình Dương.
a.Thềm lục địa:
- Là một phần của rìa lục địa, phân bố từ đường bờ biển đến
sườn lục địa ( nếu sườn lục địa không thể hiện rõ thì tới độ sâu
200m). Nó hơi nghiêng về phía biển với độ dốc rất bé(0,10), có
bề rộng thay đổi từ vài km( bờ biển Thái bình Dương) đến
khoảng 500km( bờ biển Đại Tây Dương ở Newfoundland).
Ở nước ta, thềm lục địa phân bố rộng ở vịnh Bắc bộ và khu
vực miền Nam, có nơi rộng đạt 200km. ở miền Trung, thềm
lục địa thu hẹp, hẹp nhất là từ Đà Nẵng đến Nha Trang.
b.Sườn lục địa:
- Tương đối dốc hơn thềm lục địa( độ dốc trung bình 40 -
50, có nơi dốc hơn), phân bố tù ranh giới của thềm lục địa
đến ranh giới trên của chân lục địa(đối với rìa lục địa thụ
động)hoặc đáy của rãnh đại dương(đối với rìa lục địa tích
cực).
c.Chân lục địa:
- Là phần nối sườn lục địa với đáy đại dương(hoặc đồng
bằng biển thẳm), có độ dốc trung bình khoảng 0,50( thoải
hơn sườn lục địa). Thực chất chân lục địa là cái “nêm”
trầm tích phủ lên phần dưới của sườn lục địa và một phần
đáy đại dương.
d.Đồng bằng biển thẳm:
- Là vùng đất bằng phằng nằm trên đáy đại dương( độ dốc nhỏ
hơn 1:1000; ở một số nơi đạt 1:10.000), thường phân bố ở
ngoài chân lục địa, cách mực biển khoảng 5km.
Nó chỉ xuất hiện ở một số nơi trên đáy đại dương. Thông
thường đáy đại dương rất gồ ghề, bị phân cách bởi nhũng đứt
gãy, và rải rác còn có những ngọn núi biển và guyot.
-Nó được hình thành khi các vật liệu trầm tích lấp đầy các chỗ
gồ ghề một vùng bằng phẳng trên đáy đại dương.
Vì vậy, các nhà nghiên cứu địa chất biển cho rằng: phần
trên của đồng bằng biển thẳm là các lớp đá trầm tích trẻ tuổi
nằm ngang, bên dưới là bề mặt địa hình gờ ghề cáu tạo bằng
đá gốc có tuổi cổ hơn.
2.Rìa lục địa tích cực:
* Đặc trưng bởi các đai động đất, đai núi lửa trẻ và các núi lửa
nằm trên lục địa.
•Bao gồm: thềm lục địa, sườn lục địa, rãnh đại dương, phía
ngoài rãnh đại dương là đáy đại dương.
•Phân bố hầu hết ở các bờ biển bao quanh Thái Bình Dương (
ngoại trừ bờ biển Bắc Mỹ) và một số nơi ở Đại Tây Dương,
Ấn Độ Dương
a.Rãnh đại dương:
-Là những rãnh hẹp, sâu, chạy song song với rìa lục địa
hoặc cung đảo(một dãy đảo hình cánh cung).
- Sườn lục địa của rìa lục địa tích cực dốc hơn sườn lục
địa của rài lục địa thụ động từ 4 -50 ở phần trên và
khoảng 10 -150 ở phần dưới.
-Có độ sâu từ 8 – 10km(cách mực biển), vượt xa độ sâu
trung bình của đồng bằng biển thẳm(rìa lục địa thụ động).
Rãnh đại dương sâu nhất là rãnh Mariana(tây nam Thái
Bình Dương).
Rãnh đại dương:
rãnh Mariana(tây nam Thái Bình
Dương).
b.Sống núi giữa đại dương:
-Là những dãy núi đồ sộ
-phân bố dọc theo các đại dương.
-có chiều dài 80.000km
-rộng từ 1.500 – 2.500km, cao hơn đáy đáy đại dương từ 2
– 3km
- cấu tạo bằng đá bazan.
- Trên đỉnh dọc theo sống núi giữa đại dương là những rãnh
hẹp, sâu từ 1 -2km(so với đỉnh sống núi) và rộng khoảng
vài km được gọi là thung lũng rift – là nét đặc trưng cho các
dãy núi ngầm ở đáy đại dương mà không dãy núi nào trên
lục địa có.
c.Núi biển và guyot:
Núi biển là những ngọn núi hình nón nằm dưới mực
nước biển, cao hơn đáy đại dương khoảng 1000m. một
số núi biển nhô cao hơn mực biển đảo(đảo Iceland)
Hầu hết các núi biển là các đỉnh của sống núi giữa đại
dương. Tuy nhiên, có những ngọn núi biển không
thuộc sống núi giữa đại dương (đảo Hawai)
- Do cấu tạo của núi biển là đá bazan các nhà khoa
học cho rằng các ngọn núi biển này các ngọn núi
lửa ngầm dưới biển (phần lờn đã tắt)
Núibiển
- Guyot là những ngọn núi có đỉnh bằng nằm dưới mực nước
biển hàng trăm mét. Hầu hết các nhà khoa học cho rằng,
guyot được hình thành khi các ngọn núi biển bị sóng “vạt
đầu” trước khi chìm xuống mực biển do sự nguội lạnh của
vỏ đại dương khi di chuyển ra khỏi trung tâm tách giãn hay
điểm nóng.
Sự hình thành guyot
III. Thành phần hóa học của nước biển:
1.Muối hòa tan:
- Độ mặn của nước biển là lượng muối ( tính bằng gam) chứa trong 1kg
nước biển.
- Độ mặn trung bình của nước biển là 3,5%trung bình nước biển có:
3,5% muối và 96,5% nước.
-Trong nước biển muối hòa tan nhiều nhất là: NaCl(2,72%),
MgCl2(0,38%), MgSO4(0,17%), CaSO4(0,13%),…
- Ngoài các muối trong nước biển còn có các nguyên tố như: iot,
flou,photpho,kẽm,…
-Hiện nay có 2 giả thuyết về nguồn gốc của muối trong nước biển:
1.đại dương thế giới có nước mặn ngay từ đầu
2. lúc đầu nước đại dương ngọt và dần dần mặn thêm vì sông mang
muối xuống biển.
- Giả thuyết thứ hai có phần chắc hơn. Dựa vào giả thuyết này, người ta
xây dựng phương pháp tính tuổi tuyệt đối của đại dương gọi là phương
pháp muối.
2.Các chất khí hòa tan trong nước biển:
-Tỉ lệ khí trong nước biển khác với tỉ lệ khí trong không khí.
-Lượng CO trong nước biển nhiều gấp 18 -27 lần trong không khí.
2
-Sự có mặt CO2 trầm tích cacbonat bicacbonat.
-Lượng oxy giảm dần theo độ sâu.
- Nói chung, ở phần trên của đại dương lượng oxy ở trạng thái bão hòa; -
trong tầng giữa tuy chưa bão hòa nhưng cũng vượt xa tỉ lệ chung trong
không khí. Càng xuống sâu lượng oxy càng giảm, bắt đầu từ mực sâu
150 -200m nước chỉ chứa những vết oxy. Ở phía trên ranh giới đó một
chút H2S bắt đầu xuất hiện, nó tăng nhanh với chiều sâu và ở sâu 500m
đạt tới gần 4cm3 trong một lít nước.
- Trong môi trường thiếu oxy thế giới vi khuẩn phát triển rộng rãi, trong
đó có những vi khuẩn nitrat, phân giải các hợp chất nitric và các vi khuẩn
khử sunfua phân giải các sunfat.
3.Độ axit của nước biển:
Nước biển thông thường có độ pH từ 7,4 đến 8,4( mang tính
kiềm yếu). Độ pH ở Thái Bình Dương tương đối cao, ở Đại
Tây Dương tương đối thấp. Độ pH có ảnh hưởng đến sự kết
tinh của khoánh vật trong môi trường nước.
IV tính chất vật lý của nước biển :
1 Màu sắc :
-Nước biển có nhiều màu sắc.
-Màu của nước biển phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân: độ sâu
, số lượng rong tảo có trong nước biển…
-Ở vùng nhiệt đới nước biển có màu xanh biếc.
-Nước biển bên bờ biển Việt Nam nhiều nơi có màu đỏ nhạt
do phù sa của sông (sông Hồng ở phía Bắc, sông Cửu Long,
sông Đồng Nai ở phía Nam).
-Một số sinh vật thuộc loại dạ quang có bộ phận phát ra ánh
sáng nước biển miền nhiệt đới ban đêm có ánh rất đẹp
-Sự trong đục của nước biển có ảnh hưởng đối với sinh vật
lẫnsự trầm tích
2 Nhiệt độ :
Thay đổi theo độ sâu:ở phần trên măt nhiệt độ của nước biển
phụ thuộc vào thời tiết và vị trí địa lý
3 Tỉ trọng :
Tỉ trọng của nước biển hoàn toàn do nhiệt độ và lượng muối
trong nước quyết định
4 Áp suất :
Tăng theo độ sâu : cứ xuống sâu 10m áp suất tăng lên 1atm.
V Đời sống ở biển :
Biển và đại dương là nơi cư trú của động vật và thực vật mà sự
phát triển và phân bố phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhiệt độ,
độ mặn, sự tuần hoàn của nước, áp suất, ánh sáng…
Các loài động vật và thực vật được chia làm 3 nhóm : nhóm ở
đáy, nhóm bơi lội và nhóm trôi nổi
1 Nhóm sinh vật ở đáy :
-Sinh vật sống theo kiểu cố định(san hô, đài tiễn, bọt biển…)
-Sinh vật dịch chuyển ở mặt đáy trên những khoảng không
gian nhỏ bé(sao biển, cầu gai..)
-Sinh vật ở đáy có rất nhiều ở thềm lục địa
2 Nhóm sinh vật trôi nổi:
- Bao gồm những sinh vật bơi lội thụ động.Đa số là những
sinh vật đơn bào. kích thước nhỏ (chỉ thấy qua kính hiển vi.
Vd : trùng lỗ, trùng tỏa tia…)
- Có nhiều nhất trong các lớp nước trên măt biến . xuống
sâu thực vật trôi nổi giảm dần và biền hẳn ở độ sâu 200m.
- Chúnglập thành một nhóm quan trọng của khối sinh vật
tạo thành dầu mỏ , phiến thạch cháy và phiến thạch bitum
3 Nhóm sinh vật bơi lội :
Gồm tất cả các sinh vật di chuyển dễ dàng như cá và nhiều
động vật không xương sống ở biển.
Trong các nhóm sinh vật kể trên :
- Sinh vật ở đáy và sinh vật trôi nổi tích đọng trần tích.
- Nhóm sinh vật ở đáy địa chất lịch sử
VI Sự vận động của nuoc biển:
Nguyên nhân làm cho nước biển chuyển động là do sự vận
động của gió, do sức hút của mặt trăng và mặt trời lên trái đất,
do khác nhau về nhiệt độ, độ mặn của nước biển
1 Sóng biển:
Nguyên nhân là do gió, núi lửa hoặc động đất ở đáy
biển…Hầu hết song là do gió thổi trên mặt biển tạo ra
Các thong số dùng để mô tả sóng bao gồm: đỉnh song, chân
sóng, chiều dài song, chu kì song, tốc độ sóng, chiều cao song
Các thông số dùng để mô tả sóng
Hoạt động:
Trong chuyển động của sóng các phần tử nước không chuyển
động theo phương của sóng mà chỉ chuyển động lên xuống gần
như tại chỗ quỹ đạo hỉnh tròn có đường kính giảm dần theo
độ sâu và đến độ sâu khoảng hơn nửa chiều dài sóng không
chuyển động. Khi sóng tới gần bờ độ sâu giảm, do ma sát với
đáy phần dưới của sóng chuyển động chậm lại trong khi đó
phần đỉnh của sóng di chuyển nhanh hơn đổ nghiêng về phía
trước. Hiện tượng này sự thiếu hụt nước ở phần sườn trước
của sóng sinh ra sự bất đối xứng của sóngcàng tăng khi
sóng tiến vào bờ đến khi vượt giá trị ổn định thì sóng sẽ bị vỡ ra
Phân loại sóng:
a. Phân loại sóng theo độ sâu:
b. Phân loại theo độ cao:
c. Phân loại theo kiểu sóng vỡ:
- Sóng vỡ kiểu đổ nước: thường thấy ở đáy biển dốc thoải
- Sóng vỡ kiểu quăng nước: động năng cao, thường thấy ở
đáy biển có độ dốc lớn
d. Phân loại theo mức độ phá hoại của sóng
Sóng vỗ bờ
Sóng thần
Tác dụng địa chất của sóng:
- Bờ biển là nơi diễn ra sự tranh chấp không ngừng giữa đại
dương và đất liền(bờ biển có thể là 1 vách đá dựng đứng hay
1 bãi bồi,1 đầm lầy)
- Khi đất liền lấn biển hay biển lấn đất liền thì vai trò của
sóng rất quan trọng đối với sự hỗ trợ đắc lực của gió.
- Sóng và gió phá vỡ các vách đá và vận chuyển cát sỏi dọc
bờ biển từ đó thúc đẩy quá trình phong hóa đá và tạo ra các
dạng địa hình khác nhau cho bờ biển
2 Thủy triều:
-Là sự chuyển đông lên xuống của nước biển có tính chu kì trong ngày
.Nguyên nhân gây ra thủy triều là do:lực hút của măt trăng và măt trời
lên trái đât theo lực vạn vật hâp dẫn của Newton
-Dưới sức hút của Mặt Trăng và do lực li tâm khi Trái Đất quay quanh
trục nước ở biển và đại dương nhô ra về phía mặt trăng và ở phần đối
diện. các điểm này di chuyển trên bề mặt trái đấtdo đó tại một điểm cố
định trên trái đất sẽ có 2 lần thủy triều lên và xuống khoảng 24h50phút.
- Ngoài mặt trăng, trái đất còn chịu thêm lực hút của mặt trời ngoài
nước lớn,ròng hằng ngày, mỗi tháng còn có 2 lần thủy triều lên cao và 2
lần triều kém
Sự chênh lệch mực nước biển lúc triều lên và triều xuống được gọi là
biên độ triêù – thay đổi theo mùa trong năm. Tùy thuộc vào hình dạng
của bờ biển, địa hình đáy biển mà có các chế độ triều khác nhau
-
Chế độ bán nhật triều: là chế độ thủy triều 1 ngày có 2 lần
lên và xuống. Bờ biển Nam bộ nước ta có chế độ này
-Chế độ nhật triều: thùy triều lên xuống mỗi ngày 1 lần. Bờ
biển Bắc bộ có chế độ này
-Chế độ tạp triều: là có ngày nhật triều có ngày bán nhật
triều. Bờ biển Trung bộ có tính chất này.
Thủ
Thủy
y
Triều
triều
Xuống
lên
Tác dụng địa chất của thủy triều:
Có tác dụng địa chất mạnh ở phạm vi bờ biển và đồng thời
còn tùy thuộc vào vị trí địa lý và địa hình… lúc thủy triều
lên nước chảy vào lục địa, lúc thủy triều xuống nước chảy
ra biển. Vì vậy có tác dụng cơ học lên địa hình bờ biển.
3 Hải lưu:
-Sự tự quay của trái đất, sự khác nhau về nhiệt độ, độ mặn của
nước biển giữa các vùng hoặc giữa phần trên mặt với các phần
dưới đáy biển và các loại gió chiếm ưu thế thổi trên mặt biển
và đại dương là nguyê nhân tạo nên sự dịch chuyển thành các
dòng chảy lớn trong các đại dương gọi là dòng hải lưu. Các
dòng hải lưu có tốc độ và kích thước khác nhau.
-Phân loại hải lưu:
-Tùy theo nhiệt độ và vị trí dòng chảy mà phân loại hải lưu:
+Theo nhiệt độ:
*Hải lưu nóng
*Hải lưu lạnh:
+Theo vị trí dòng chảy:
*Dòng chảy trên mặt
*Dòng chảy dưới sâu
Tác dụng địa chất của hải lưu:
Giúp vận chuyển các vật liệu trầm tích dưới đáy đại
dương đến tích tụ ở những nơi khác trong lòng đại
dương.
VII Các quá trình phá hủy:
Các tác nhân phá hủy biển là sóng, thủy triều và các dòng hải lưu
1 Quá trình phá hủy của sóng:
-Sóng biển là tác nhân quan trọng trong quá trình xâm thực của biển và đại dương, là
một trong những yếu tố hình thành các dạng địa hình ờ bờ biển.
-Tốc độ phá hủy của sóng phụ thuộc vào: cường độ của
sóng, độ dốc của bờ biển và của đáy biển, các đặc điểm về thế
nằm, độ cứng, kiến trúc và cấu tạo của đất đá ở bờ biển
Sóng biển phá hủy bờ biển là nhờ cường độ của sóng khi xô
vào bờ. Cường độ của sóng lớn mặt biển thoáng , hoặc khi
có bão, động đất … áp lực của sóng xô vào bờ đạtđến
4000kg/m2. Do áp lực lớn +với các tảng đá+mảnh vỡ đá bị
phá hủy trước được sóng mang theo liên tục phóng vào bờ
các bờ đá bị nứt và vỡ ra.
Bản thân các tảng+mảnh vỡ đá này cũng bị mài mòn lẫn
nhau kích thước giảm dần tròn trĩnhđược sóng mang đi
trầm tích ở các vịnh biển kín.
Mặt khác khi sóng xô vào bờ đã dồn ép không khí vào các khe
nứtáp lực rất lớn trong các khe nứt này rồi sau đó được giải
phóng. Quá trình ném rồi giải phóng cứ tiếp diễn liên tục làm
cho các khe nứt này ngày càng mở rộng, tạo thuận lợi cho quá
trình phá hủy xảy ra nhanh hơn.
.
+Bờ biền và đáy biển dốc là nguyên nhân làm cho quá trình xâm
thực diễn ra nhanh hơn. Đáy biển dốc thường gây ra sóng vỡ kiểu quăng
nước với động năng lớnsức phá hủy của nó lớn. Nếu gặp các bờ biển
dốc, khi sóng đập vào bờ hàm ếch( hang chân sóng). Hàm ếch ngày
càng ăn sâuphần đá ở trên hàm ếch sẽ sụp xuống. Quá trình tạo hàm
ếch lại tếp tục bờ biển ngày càng lùi sâu vào đất liền và đáy biển thoải
dần đạt đến trắc diện cân bằng. Ở những bờ biển có cấu tạo bằng đất
đá mềm thì hàm ếch điển hình không được hình thành mà chỉ xảy ra hiện
tượng trượt đất.
+Thế nằm của đá:khi các lớp trầm tích dốc về phía lục địa thì
tốc độ phá hủy là cực đại, và khi nào đá dốc về phía biển thì
tốc độ là cực tiểu, khi đá nằm ngang tốc độ là trung bình.
+Kiến trúc và cấu tạo của đá: Đá có kiến trúc hạt thô hoặc không
đồng đều thì bị phá hủy nhanh hơn đá có kiến trúc hạt nhỏ hoặc
đồng đều hơn và các đá có nhiều nứt nẻ càng dễ bị phá hủy
hơn.
Hiện tượng trượt đất Hang chân sóng
3 Quá trình phá hủy của các dòng hải lưu:
-Sự phá hủy của các dòng hải lưu trên mặt:chủ yếu phá hủy ở
bờ biển. quá trình phá hủy này rất yếu và phụ thuộc vào tốc độ
dòng hải lưu và hiện tượng tự quay của trái đất.
- Do hiện tượng lệch hướng ở bán cầu bắc và nam các dòng
hải lưu chảy theo hướng kinh tuyến ở bán cầu bắc bên phải
bị xâm thực mạnh hơn bên bờ trái, ngược lại. Đối với các dòng
hải lưu chảy theo hướng vĩ tuyến thì bán cầu bắc bờ phía bắc
bị phá hủy mạnh hơn bờ phía nam, và ở bán cầu nam thì
ngược lại.
-Sự phá hủy của các dòng hải lưu dưới sâu: chủ yếu xâm thực
sâu bề mặt đáy biển và đại dương.Quá trình xâm thực này xảy
ra rất yếu, không đáng kể.
Ngoài cách phá hủy bờ biển bằng các tác nhân cơ học như đã
nói trên, biển và đại dương còn phá hủy bằng phương thức hóa
học và các tác dụng xâm thực của sinh vật đào hang, lỗ
VIII.Quá trình vận chuyển:
-Các vật liệu ở biển và đại dương được vận chuyển theo 2
phương thức là phương thức hoá học và cơ học.
-Vật liệu được vận chuyển theo phương thức hoá học bao
gồm: các vật chất hoà tan và các chất keo
-Vật liệu được vận chuyển theo phương thức cơ học bao gồm:
toàn các vật liệu vụn từ thô đến mịn, di chuyển theo cách trôi
nổi, chảy, lăn, nhảy…
-Các tác nhân vận chuyển chủ yếu là sóng biển, dòng thuỷ
triều, dòng hải lưu, dòng ven bờ.
-Các vật liệu gần bờ do sóng chuyển đi theo 2 cách:
+Di chuyển ngang: các vật liệu di chuyển theo phương vuông
góc với bờ biển theo thứ tự càng xa bờ kích thước hạt càng
nhỏ.
+Di chuyển dọc: ảnh hưởng của dòng ven bờ ( do song tạo
ra), các vật liệu sẽ di chuyển dọc theo bờ biển.
IX. Quá trình trầm tích của biển và đại dương :
1 Trầm tích ở thềm lục địa:
-Các tích tụ ở thềm lục địa có 3 nguồn gốc khác nhau:
+Nguồn gốc vô cơ: Vật liệu trầm tích vô cơ là các mảnh vụn
của khoáng vật và đá được sóng mang từ lục địa tới hoặc là sản
phẩm phá huỷ tại chỗ. Chúng được vận chuyển bởi sóng, hải
lưu, dòng ven bờ…và cuối cùng tích tụ lại ở nhũng nơi có động
năng thấp theo quy luật càng gẩn bờ hạt càng thô, càng xa bờ
hạt càng mịn.
- Các tích tụ ở đây có đặc điểm: màu sắc và bề dày lớp ổn định,
diện phân bố rộng,cấu tạo xiên và chứa nhiều di tích sinh vật.
Dưới ảnh hưởng của song, thuỷ triều, dòng ven bờ,… các tích
tụ vô cơ thường tạo nên ở ven bờ các dạng địa hình như: bãi
biển, doi cát, đảo chắn, tombolo…
Bãi biển:
Là một bộ phận của bờ biển được cấu tạo bởi những
vật liệu trầm tích bở rời. Cát là vật liệu chủ yếu cấu tạo nên
bãi biển, ngoài ra còn có cuội, bùn, sét. Các đặc điểm như độ
dốc, cấu tạo, hình dạng của bãi biển, kích thước của vật liệu
… phụ thuộc phần lớn vào năng lượng cùa sóng.
Bãi đá ngũ sắc- Tuy Phong Bãi biển Nha Trang
*Doi cát hay mũi tên cát: Ở những nơi bờ biển lõm vào,
dưới tác dụng của dòng ven bờ, các vật liệu trầm tích được vận
chuyển dọc theo bờ sẽ tích tụ bao quanh chỡ lồi ra tạo thành
doi cát.( Doi cát rất phổ biến ở miền trung nước ta). Nếu doi
cát tiếp tục phát triển sẽ hình thành nên đảo chắn hay đê cát
chắn kín cửa vịnh, biến vịnh thành đầm,phá. Đầm phá chỉ giao
lưu với vùng biển bên ngoài thong qua những cửa nhỏ hẹp là
các con lạch thuỷ triểu.
Tombolo:
Các đảo nằm gần bờ biển thường tạo ra các khu vực
“bóng sóng” tại đây động năng sóng rất yếu. Các dòng ven bờ
vận chuyển vật liệu trầm tích dọc theo bờ, đến khu vực “bóng
sóng : sẽ tích tụ lại tạo thành một dải đất. Dải đất này dần dần
kéo dài đến đảo, biến đảo thành bán đảo. Dải đất nối đất liền
với đảo như vậy tiếng Ý gọi là tombolo.
+Nguồn gốc hoá học: được hình thành do quá trình ngưng
keo hoặc kết tủa của các dung dịch được mang ra từ lục địa,
chúng được hình thành trong các vũng, vịnh hoặc dải ven bờ
biển. Ở khí hậu ôn đới phổ biến các tích tụ silic; khí hậu ấm áp
cho các tích tụ cacbonat; khí hậu khô nóng cho các tích tụ
muối, thạch cao, dolomite,… Tích tụ hoá học còn phổ
biến theo quy luật chiều sâu: gần bờ là các tích tụ Fe, Al; xa bờ
là tích tụ Mn,Si,cacbonat,…
Nguồn gốc sinh học:
Được hình thành do quá trình sinh sống và ho