Bài thuyết trình Chương 10 : lý luận về nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Lịch sử cho thấy, trong xã hội loài người ngoại trừ xã hội cộng s ản nguyên thủy quản lý nhà nước thông qua Hội đồng, Đại hội nhân dân và Thủ lĩnh quân sự, thì ở các hình thái xã hội còn lại để quản lý xã hội người ta đều thông qua Nhà nước. Để đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi nhà nước là gì, nguồn gốc từ đâu mà có, bản chất thực sự của nhà nước là như thế nào, nhà nước có vai trò gì đối với xã hội và trong quá trình phát triển của xã hội nhà nước đã tồn tại qua bao nhiêu hình thái khác nhau, đặc trưng cơ bản của các k iểu nhà nước này r a sao; bên cạnh đó cũng thật là cần thiết để tìm hiểu về kiểu nhà nước đang quản lý xã hội chúng ta sống - Nhà nước Pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đó là những nội dung mà tiểu luận về “LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT N AM” sẽ mang đến cho các bạn. Tiểu luận này sẽ gồm hai phần ch ính, phần I là những nội dung cơ bản nhất về nhà nước như nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng, vai trò của nhà nước cũng như những hình thức nhà nước đã tồn tại trong lịch sử; phần II sẽ cung cấp những nội dung khái quát về nhà nước pháp quyền như nhà nước pháp quyền là gì, các đặc điểm của nó, khái quát về các tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử và khái quát về Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Do hạn chế về mặt thời gian và kiến thức, nội dung của tiểu luận này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của các bạn.

pdf21 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 9219 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thuyết trình Chương 10 : lý luận về nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC Bộ môn: Triết Học Chương 10 : LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM GIẢNG VIÊN : TS. BÙI VĂN MƯA LỚP : CAO HỌC Đ ÊM 6 – K20 HỌC VIÊN : NHÓM THUYẾT TRÌNH CHƯƠNG 10 TP. HỒ CHÍ MINH, 2011 1 LỜI MỞ ĐẦU Lịch sử cho thấy, trong xã hội loài người ngoại trừ xã hội cộng sản nguyên thủy quản lý nhà nước thông qua Hội đồng, Đại hội nhân dân và Thủ lĩnh quân sự, thì ở các hình thái xã hội còn lại để quản lý xã hội người ta đều thông qua Nhà nước. Để đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi nhà nước là gì, nguồn gốc từ đâu mà có, bản chất thực sự của nhà nước là như thế nào, nhà nước có vai trò gì đối với xã hội và trong quá trình phát triển của xã hội nhà nước đã tồn tại qua bao nhiêu hình thái khác nhau, đặc trưng cơ bản của các k iểu nhà nước này ra sao; bên cạnh đó cũng thật là cần thiết để tìm hiểu về kiểu nhà nước đang quản lý xã hội chúng ta sống - Nhà nước Pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đó là những nội dung mà tiểu luận về “LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT N AM” sẽ mang đến cho các bạn. Tiểu luận này sẽ gồm hai phần chính, phần I là những nội dung cơ bản nhất về nhà nước như nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng, vai trò của nhà nước cũng như những hình thức nhà nước đã tồn tại trong lịch sử; phần II sẽ cung cấp những nội dung khái quát về nhà nước pháp quyền như nhà nước pháp quyền là gì, các đặc điểm của nó, khái quát về các tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử và khái quát về Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Do hạn chế về mặt thời gian và kiến thức, nội dung của tiểu luận này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của các bạn. I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC: 2 1. Nguồn gốc, bản chất và đặc trưng của nhà nước: 1.1. Nguồn gốc: Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội nguyên thuỷ, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, cho nên chưa có nhà nước. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là các tộc trưởng do nhân dân bầu ra, quyền lực của những người đứng đầu thuộc về uy tín và đạo đức, việc điều chỉnh các quan hệ xã hội được thực hiện bằng những quy tắc chung. Trong tay họ không có và không cần một công cụ cưỡng bức đặc biệt nào. Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kh áng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được xu ất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm hoạ đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không điều hoà giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Tiếp đó là nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản. Nguyên nhân trực tiếp của sự xu ất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Đúng như V.I.Lênin nhận định: "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được"1. Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa. 1.2. Bản chất: - Theo quan niệm của các tư tưởng triết học trước C.Mác: thường đứng trên lập trường duy tâm và tôn giáo. - Theo quan niệm của triết học Mác-Lênin: Nhà nư ớc là một yếu tố đặc biệt quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp đối kháng. Thực chất: 3 Theo quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nhà nước là một yếu tố đặc biệt quan trọng trong kiến trúc thượng tầng, tồn tại dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định; là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là một tổ chức quyền lực đặc biệt, có bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý nhằm thực hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng. Bản chất của nhà nước thể hiện dưới hai đặc tính cơ bản:  Thứ nhất, là tính giai cấp của Nhà nước: thể hiện ở chỗ nhà nước là công cụ thống trị trong xã hội để thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản chất của nhà nước chỉ rõ nhà nước đó là của ai, do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo, phục vụ lợi ích của giai cấp nào? Trong xã hội bóc lột (xã hội chiếm hữu nô lê, xã hội phong kiến, xã hội tư sản) nhà nước đều có bản chất chung là thiết chế bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột trên 3 mặt: Kinh tế, chính trị và tư tưởng. Vì vậy, nhà nước tồn tại với hai tư cách:  Một là bộ máy duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác.  Hai là tổ chức quyền lực công – tức là nhà nước vừa là người b ảo vệ pháp luật vừa là người bảo đảm các quyền của công dân được thực thi.  Thứ hai là tính xã hội hay còn gọi là vai trò kinh tế - xã hội của Nhà nước. Trong nhà nước, giai cấp thống trị chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các tầng lớp giai cấp khác, do vậy ngoài tư cách là công cụ duy trì sự thống trị, nhà nước còn là công cụ để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội. Ví dụ: Nhà nước giải quyết các vấn đề nảy sinh từ đời sống xã hội như: đói nghèo, bệnh tật, chiến tranh, các vấn đề v ề môi trường, phòng chống thiên tai, địch hoạ, về dân tộc, tôn giáo v à c ác chính sách xã hội khác.v.v…Bảo đảm trật tự chung- bảo đảm các giá trị chung của xã hội để tồn tại và phát triển 4 Như vậy, vai trò kinh tế - xã hội là thuộc tính khách quan, phổ biến của Nhà nước. Tuy nhiên, mức độ biểu hiện cụ thể và thực hiện vai trò đó không giống nhau giữa các nhà nước khác nhau. Vai trò và phạm v i hoạt động của nhà nước phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển cũng như đặc điểm của mỗi nhà nước, song phải luôn tính đến hiệu quả hoạt động của nhà nước. Để hoạt động có hiệu quả, nhà nước phải chọn lĩnh vực hoạt động nào là cơ b ản, cần thiết để tác động. Bởi nếu không có sự quản lý của nhà nước sẽ mang lại hậu quả xấu cho xã hội. Vì vậy, vai trò của nhà nước chỉ nên hoạt động và quản lý trên năm lĩnh vực sau:  Ban hành pháp luật và có các biện pháp bảo đảm thi h ành pháp luật.  Ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô,điều tiết, điều phối các chính sách kinh tế - xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.  Đầu tư, cung cấp hàng hoá dịch vụ xã hội cơ bản (c ấp phép, kiểm dịch, kiểm định, giám sát, kiểm tra các lĩnh vực.v.v…)  Giữ vai trò là người bảo vệ (Các) nguồn những nhóm người yếu thế và dễ bị tổn thương trong xã hội (người g ià, trẻ em, người tàn tật.v.v…)  Hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, giao thông; phòng chống thiên tai, bão lụt.v.v…  Ngày nay các nước trên thế giới đều chú ý quan tâm nhiều đến vai trò xã hội của nhà nước vì sự tồn vong của cộng đồng xã hội. 1.3. Đặc trưng - Nhà nước phân chia và quản lý dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Nhà nước thiết lập quyền lực trên các đơn vị hành chính lãnh thổi, quản lý cư dân theo đơn vị hành chính lãnh thổ mà không phụ thuộc vào huyết thống, giới tính, tôn giáo.v.v… - Nhà nước thiết lập quyền lực công để quản lý xã hội và nắm quyền thống trị thông qua việc thành lập bộ máy chuyên là nhiệm vụ quản lý nhà nước và bộ máy chuyên thực hiện cưỡng chế (quân đội, nhà tù, cản sát.v.v…) để duy trì địa vị của 5 giai cấp thống trị. Còn các tổ chức khác trong xã hội không có quỳen lực này như tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, phụ nữ, đo àn thanh niên, Mặt trận Tổ Quốc, … - Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình. Nhà nước tự quyết định về chính sách đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài - Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện quản lý buộc các thành viên trong xã hội phải tuân theo:  Nhà nước ban hành pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế.  Thông qua pháp luật, ý chí của nhà nước trở thành ý chí của toàn xã hội, buộc mọi cơ quan, tổ chức, phải tuân theo.  Trong xã hội, chỉ có Nhà nước mới có quyền ban hành luật và áp dụng pháp luật. - Nhà nước quy định và thực hiện thu thuế dưới hình thức bắt buộc, nhằm:  Để duy trì bộ máy nhà nước.  Bảo đảm cho sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng,  Giải quyết các công việc chung của xã hội  Quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định  Có một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội  Hình thành thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị của nó. 2. Chức năng và vai trò kinh tế của nhà nước 2.1. Chức năng cơ bản: - Chức năng chính trị và xã hội 6 o Chức năng chính trị: bảo vệ và thực hiện lợi ích của giai cấp thống trị o Chức năng xã hội: bảo vệ và thực hiện lợi ích chung của cộng đồng quốc gia trong đó có lợi ích của gia cấp thống trị Quan hệ giữa chức năng chính trị và chức năng xã hội: chức năng chính trị giữ vị trí chi phối phương hướng và mức độ thực hiện chức năng xã hội, còn chức năng xã hội giữ vai trò là cơ sở cho việc thực hiện chức năng chính trị, đảm bảo cho việc thực hiện chức năng chính trị một cách hiệu quả. - Chức năng đối nội và đối ngoại o Chức năng đối nội: duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp cầm quyền. o Chức năng đối ngoại: b ảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác mà thực chất là thực hiện lợi ích giữa giai cấp thống trị trong mối quan hệ với các quốc gia khác nhau. Quan hệ giữa chức năng đối nội và đối ngoại: chức năng đối nội quyết định chức năng đối ngoại vì nhà nước ra đời và tồn tại là do cơ cấu giai cấp bên trong của mỗi quốc gia quy định. Sự thống trị của mỗi giai cấp được thực hiện trước hết trên phạm vi quốc gia dân tộc và lợi ích của giai cấp thống trị chủ yếu là duy trì địa vị cai trị nhân dân trong nước. Mặt khác, chức năng đối ngoại cũng có tác động mạnh mẽ đối với chức năng đối nội. Trong quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế - xã hội đòi hỏi mỗi nhà nước cần phải củng cố, đổi mới chức năng đối ngoại cho phù hợp với điều kiện lịch sử thời đại. Nhưng muốn làm được điều đó cần phải đổi mới và tăng cường chức năng đối nội nhằm tạo nên nội lực đủ khả năng đáp ứng nhu cầu thực hiện chức năng đối ngoại. 2.2. Vai trò kinh tế - Tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. 7 o Nếu các chính sách và pháp luật của nhà nước phù hợp với nhu cầu khách quan của nền kinh tế, đáp ứng được những đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển kinh tế thì sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. o Ngược lại, nếu các chính sách và pháp luật của nhà nước không phù hợp thì sẽ kìm hãm hay phá hoại sự phát triển đó. - Duy trì trật tự xã hội theo ý chí của giai cấp nắm tư liệu sản xuất, nhờ đó mà duy trì được tính ổn định của quá trình sản xuất xã hội. Từ đó giai cấp thống trị có thể thực hiện được sự bóc lột kinh tế đối với những người lao động. - Khi nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa được xác lập thì vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế càng tăng và bộc lộ rõ nét hơn so với các nhà nước phong kiến và chủ nô trước đây vì: o Thứ nhất, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế luôn diễn ra những biến động khôn lường và tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng kinh tế, chính vì thế đã làm xu ất hiện nhu cầu cần can thiệp của nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế sao cho ít có khả năng xảy ra khủng hoảng nhất o Thứ hai, để mỗi nền kinh tế có thể tồn tại v à phát triển bình thường thì cần phải có các khu vực kinh tế công cộng. Tư nhân chỉ tập trung đầu tư, phát triển những lĩnh vực có thể thu được nhiều lợi nhuận. Những lĩnh vực không vì mục đích lợi nhuận nhưng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội thì nhà nước tất yếu phải là lực lượng đầu tư và phát triển nhân danh đại biểu cho toàn xã hội. o Thứ ba, sự phát triển của nền kinh tế thường tất yếu đòi hỏi phải có một môi trường chính trị - xã hội ổn định cần thiết. Mặt khác, xu thế phát triển của kinh tế thị trường là theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế, do đó nó càng cần tới vai trò của nhà nước bằng các chính sách đối ngoại, tạo môi trường pháp lý cần thiết cho quá trình đó. 3. Các kiểu và các hình thức nhà nước trong lịch sử 3.1. Các kiểu và các hình thức nhà nước trong xã hội có đối kháng giai cấp - Nhà nước chủ nô: là kiểu nhà nước của giai cấp chủ nô nhằm thực hiện sự chuyên chính của giai cấp chủ nô đối v ới giai cấp nô lệ v à tầng lới dân tự do. Nhà 8 nước chủ nô lại được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hai hình thức cơ bản là quân chủ và dân chủ - Nhà nước phong kiến: là kiểu nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến nhằm thống trị giai cấp nông dân và những người lao động. Nhà nước này được xây dựng dựa trên chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến.  Ở phương Tây thời trung cổ, nhà nước phong kiến thường tồn tại dưới hình thức quân chủ phân quyền, phù hợp với tính chất phân tán của nền sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất. Trong chế độ phong kiến phân quyền, mỗi chúa phong kiến là một ông vua trên lãnh thổ của mình, chúa phong kiến nhỏ làm chư hầu cho chúa phong kiến lớn. Hoàng đế là chúa phong kiến lớn nhất nhưng thông thường cũng chỉ có thực quyền trên lãnh thổ của mình.  Ở phương Đông, nhà nước phong kiến thường tồn tại dưới hình thức quân chủ tập quyền, dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất, tính tập quyền chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự nên nguy cơ phân quyền luôn thường trực. Một khi chính quyền nhà nước suy yếu thì nguy cơ của cuộc nội chiến tranh giành quyền lực giữa các thế lực địa chủ có thể xảy ra. - Nhà nước tư sản: nhà nước của giai cấp tư sản nhằm thực hiện nền chuyên chính tư sản đối với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước tư sản có hai hình thức cơ bản:  Quân chủ lập hiến  Hình thức cộng hòa, trong đó hình thức cộng hòa đại nghị là điển hình vả phổ biến nhất 3.2. Kiểu nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên CNXH - Khái niệm: 9 Theo Ăngghen, nhà nước chuyên chính vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt, đó là nhà nước không còn đúng theo nguyên nghĩa đen của nó mà là “nửa nhà nước”, thể hiện qua các nội dung:  Thứ nhất, đây là kiểu nhà nước thích ứng với thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, được xác lập sau khi giai cấp vô sản và nhân dân lao động làm cách mạng xóa bỏ nhà nước của các giai cấp bóc lột, và nó sẽ tự tiêu vong khi xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản.  Thứ hai, kiểu nhà nước mang bản chất giai cấp vô sản, được xây dựng và hoàn thiện theo mục tiêu xây dựng và quản lý kinh tế - xã hội, nhằm tổ chức nhân dân lao động xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa trên cơ sở liên minh công nông và trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp vô sản.  Thứ ba, là kiểu nhà nước không chỉ có chức nang trấn áp mọi thế lực chống đối công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mà quan trọng hơn là tổ chức xây dựng nền kinh tế và chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. - Hình thức tồn tại::  Nhà nước công xã Pari (1871): được Mác phân tích và rút ra những bài học kinh nghiệm về việc tổ chức hình thức nhà nước kiểu mới  Nhà nước Xô viết: dễ dàng chuyển từ chế độ tư b ản lên chế độ xã hội chủ nghĩa  Nhà nước dân chủ nhân dân: là hình thức thích hợp trong quá trình cải tạo kinh tế xã hội theo hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại cho nhà nước chuyên chính vô sản nhiều hình thức khác nhau nhưng dù dưới hình thức nào thì xét về bản chất, nhà nước đó đều thuộc kiểu nhà nước chuyên chính vô sản được xây dựng trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản với mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. 10 II. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM 1. Khái niệm và đặc điểm của nhà nước pháp quyền: 1.1. Khái niệm: Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân. 1.2. Đặc điểm: Nhà nước pháp quyền có những đặc điểm cơ bản sau: - Thứ nhất, trong nhà nước pháp quyền, pháp luật giữ vai trò tối cao. Với hình thức tổ chức xã hội theo mô hình nhà nước pháp quyền thì pháp luật trở thành tiêu chuẩn và là căn cứ căn bản nhất, cao nhất trong mọi hoạt động của bản thân nhà nước, của các tổ chức xã hội và mỗi công dân. Nghĩa là tất cả các chủ thể và cá thể trong xã hội; kể cả hoạt động của các cơ quan thuộc hệ thống tổ chức nhà nước cũng phải tuân theo pháp luật mặc dù chính nó là những cơ quan công bố, ban hành, thực thi và kiểm tra việc thực hiện pháp luật. Đây là đặc điểm tiêu biểu nhất về phương diện pháp lý để xác định một nhà nư ớc nào đó có phải là nhà nước pháp quyền hay không và là nhà nước pháp quyền ở trình độ nào. - Thứ hai, nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó quyền lực nhà nước thể hiện được lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân. + Trong nhà nước pháp quyền, bản thân luật pháp phải thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Ở các nhà nước theo hình thức tổ chức nhà nước pháp quyền đều thực hiện chế độ dân chủ trong việc thiết lập quyền lực nhà nước, thực hiện chế độ trưng cầu dân ý. 11 + Đặc điểm n ày cho thấy, mỗi cá nhân trong xã hội được tổ chức theo hình thức nhà nước pháp quyền đều có tư cách công dân và tư cách là cá nhân tự do. Với tư cách công dân, mỗi cá nhân phải có nghĩa vụ và quyền lợi theo quy định pháp luật; với tư cách cá nhân tự do, mỗi cá nhân có quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ nghiêm cấm những hành vi cá nhân và tổ chức chính trị-xã hội nào xâm hại đến lợi ích của xã hội. Như vậy, trong nhà nước pháp quyền, con người được xem là giá trị và mục tiêu cao nhất. Các quyền con người được thể chế hóa thành hiến pháp và pháp luật. - Thứ ba, nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó có sự đảm bảo thực tế mối quan hệ hữu cơ về quyền và trách nhiệm giữa nhà nước và công dân. + Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước mọi công dân về những vi phạm pháp luật của mình, làm tổn hại đến lợi ích của công dân. + Các tổ chức trong xã hội phải thực hiện các nghĩa vụ và chịu trách nhiệm về những hành vi của mình theo quy định của pháp luật. Ngoài ba đặc điểm trên, còn có sự tranh luận về nguyên tắc “ tam quyền phân lập”. Có quan niệm cho rằng, nguyên tắc này là đặc điểm của nhà nước pháp quyền; tuy nhiên, quan điểm khác cho rằng việc phân tách quyền lực nhà nước thành ba bộ phận quyền lực độc lập (lập pháp, hành pháp và tư pháp) và chi phối ràng buộc lẫn nhau hay không không phải là vấn đề thuộc về bản chất của hình thức tổ chức nhà máy pháp quyền. Theo quan điểm này, vấn đề thuộc bản chất nhà nước pháp quyền là quyền lực nhà nước có thực sự thuộc về đông đảo nhân dân hay không; ý chí, lợi ích và quyền lực của đông đảo nhân dân một khi đã được đề lên thành pháp luật có thực sự là chuẩn mực cơ bản và tối cao trong mọi hoạt động của xã hội và công dân hay không; lợi ích hợp pháp của các công dân, các tổ chức trong xã hội và của bản thân bộ máy nhà
Luận văn liên quan