Cácnhàhoạchđịnhchínhsáchkinhtế của
mỗiquốcgiathường đặtra nhiềumụctiêu
nhưngliệu cóthể cùngmộtlúc đạtđượctất
cảcácmụctiêu haykhông?
Lýthuyết bộbabấtkhảthi (TRILEMMA) chỉ
ra rằng: Mộtquốcgiacóthể chọnmộtlúc 2
nhưngkhôngthểlà 3mụctiêusau:
- Chínhsáchtiền tệđộclập
- Ổnđịnhtỷ giá
- Tựdohóadòngvốn
60 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2109 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thuyết trình Giả thuyết “bộ ba bất khả thi” trong kỷ nguyên sự mất cân bằng toàn cầu: định lượng và kiểm nghiệm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIẢ THUYẾT “BỘ BA BẤT KHẢ
THI” TRONG KỶ NGUYÊN SỰ
MẤT CÂN BẰNG TOÀN CẦU:
ĐỊNH LƯỢNG VÀ KIỂM NGHIỆM
BỘ MÔN: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
GVHD: Ths. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO
Thành viên nhóm 1:
1. LÂM THỤC LINH
2. ĐÀO THỊ BẢO PHƯƠNG
3. DƯƠNG THỊ KIM THANH
4. LƯU BÁCH TÙNG
5. NGUYỄN NGỌC YẾN ĐIỆP
6. TRẦN THỊ HOÀI PHƯƠNG
7. LÊ TRUNG HIẾU
8. NGUYỄN CÔNG THÀNH
9. NGUYỄN VĂN VIỆT
Nội dung thuyết trình :
Dẫn nhập
Phần I: Lý thuyết bộ ba bất khả thi
Phần II: Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Phần III: Phần mở rộng của lý thuyết
DẪN NHẬP
Các nhà hoạch định chính sách kinh tế của
mỗi quốc gia thường đặt ra nhiều mục tiêu
nhưng liệu có thể cùng một lúc đạt được tất
cả các mục tiêu hay không?
Lý thuyết bộ ba bất khả thi (TRILEMMA) chỉ
ra rằng: Một quốc gia có thể chọn một lúc 2
nhưng không thể là 3 mục tiêu sau:
- Chính sách tiền tệ độc lập
- Ổn định tỷ giá
- Tự do hóa dòng vốn
Minh họa về bộ ba bất khả thi
PHẦN I: LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI
Chúng ta sẽ tìm hiểu lý thuyết này theo trình
tự như sau:
- Đo lường các biến của bộ ba bất khả thi
- Mối quan hệ tuyến tính của các chỉ số bộ
ba bất khả thi
- Nhận xét rút ra từ mô hình
1. Đo lường các biến trong trilemma:
1.1 Xây dựng phương pháp đo lường Trilemma
Tự do tiền tệ (MI): Phạm vi của tự do tiền tệ
được đo lường bởi hàm thuận nghịch định kỳ
hàng năm của lãi suất tháng giữa nước chủ
nhà và nước so sánh.
1.1 Xây dựng phương pháp đo lường
Trilemma
Corr (ii, ij) – (-1)
MI = 1 –
1 – (-1)
Trong đó:
i: Lãi suất của nước chủ nhà
j: Lãi suất của nước cơ sở
1.1 Xây dựng phương pháp đo lường
Trilemma
0 < MI < 1
Nước so sánh được định nghĩa là nước mà
có chính sách tiền tệ gần giống với nước chủ
nhà (Úc, Bỉ, Pháp, Đức, Malaysia, Nam Phi,
Anh và Mỹ)
1.1 Xây dựng phương pháp đo lường
Trilemma
Tỷ Giá Hối Đoái cố định (ERS): Để đo lường
ERS, ta sử dụng độ lệch chuẩn của tỷ giá hối đoái
của nước chủ nhà và nước so sánh.
1
ERS =
Stdev (exch _rate)
1 +
d log E1/dt + 0.01
d log E1/dt + 0.01 là giá trị tuyệt đối của tỷ lệ
của tỷ giá hối đoái của tháng 12 của năm.
1.1 Xây dựng phương pháp đo lường
Trilemma
0 < ERS < 1
ERS cho kết quả càng cao thì biểu thị mức độ ổn
định của tỷ giá nước đang so sánh so với nước
cơ sở và ngược lại.
1.1 Xây dựng phương pháp đo lường
Trilemma
Chỉ số KAOPEN hay còn gọi là tự do hóa dòng vốn:
KAOPEN dựa vào những thông tin từ báo cáo
hàng năm “exchange arrangement and exchange
restrictions” (AREAER).
Là chỉ số được chuẩn hóa đầu tiên.
Được sắp xếp theo thứ tự từ 0 đến 1.
Chỉ số này càng cao cho thấy chuyển giao vốn
giữa các quốc gia ngày càng tăng.
1.2 Theo dõi các chỉ số
Những thay đổi qua những nhóm quốc gia:
Những thay đổi qua những nhóm quốc gia:
Những quốc gia công nghiệp hướng tới tự do
hóa tài chính qua các năm.
Những quốc gia công nghiệp cũng hướng đến
ổn định tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, kết quả này là
do sự bảo hộ của khối Euro.
Những quốc gia đang phát triển dịch chuyển về
hướng linh hoạt tỷ giá mạnh hơn và hợp thành
khối tài chính mạnh.
Những thay đổi qua những nhóm quốc gia:
Những quốc gia có thị trường mới nổi có sự
tăng trưởng nhanh chóng về mức độ tích lũy dự
trữ quốc gia
Những quốc gia đang phát triển có thị trường
chưa nổi dịch chuyển ít hơn những quốc gia có
thị trường mới nổi.
Những thay đổi qua những nhóm quốc gia:
So sánh những quốc gia phát triển thông
quan những nhóm thuộc khu vực địa lý khác
nhau.
Những thay đổi qua những nhóm quốc gia:
Những thay đổi qua những nhóm quốc gia:
Những thay đổi qua những nhóm quốc gia:
Những thay đổi qua những nhóm quốc gia:
Những thay đổi qua những nhóm quốc gia:
Những thay đổi qua những nhóm quốc gia:
Những thay đổi qua những nhóm quốc gia:
Những quốc đang phát triển ở cả Châu Á và Mỹ
Latin có khuynh hướng tỷ giá linh hoạt.
Trong khi các quốc gia LATAM (Châu Mỹ Latin)
gia tăng nhanh chóng việc mở cửa thị trường tài
chính thì những quốc gia Châu Á không làm
được.
Những thay đổi qua những nhóm quốc gia:
Những quốc gia Châu Á có thị trường mới nổi
nghiêng về phía mở cửa thị trường tài chính;
trong chừng mực nào đó có thể so sánh được với
những quốc gia thị trường mới nổi ở LATAM.
Điểm khác biệt là những quốc gia Châu Á có thị
trường mới nổi nắm giữ nguồn dự trữ quốc gia
nhiều hơn nhóm quốc gia LATAM.
Những quốc gia Châu Phi cận Sahara cũng dịch
chuyển theo hướng thả nổi tỷ giá và tự do hóa tài
chính trong những năm 1980.
1.2 Theo dõi các chỉ số
Những mô hình trong cân bằng Panel
Những mô hình trong cân bằng Panel:
Những mô hình trong cân bằng Panel:
Thể hiện cùng một lúc chiều hướng phát triển
của những chỉ số bộ ba.
Mẫu bao gồm 50 quốc gia trong đó có 32
quốc gia đang phát triển.
Mỗi bảng thể hiện trung bình của chỉ số bộ
ba và độ lệch chuẩn của nó.
Những mô hình trong cân bằng Panel:
Có sự khác biệt rõ ràng giữa những quốc gia
đang phát triển và những quốc gia công nghiệp.
- Giữa cuối những năm 1970 đến cuối những
năm 1980, mức độ độc lập tiền tệ giữa những
quốc gia công nghiệp hóa và đang phát triển có
mối quan hệ mật thiết nhau.
Những mô hình trong cân bằng Panel:
- Những năm đầu 1990:
+ Những quốc gia đang phát triển dao động xung
quanh giữa mức độc lập tiền tệ và hơi lệch hướng với
đường trung bình.
+ Những quốc gia công nghiệp ít độc lập hơn, và di
chuyển theo hướng xa đường trung bình hơn
+ Tự do hóa dòng vốn được đánh dấu cao hơn so với
đường trung bình của mô hình và mô hình phụ LDC.
Những mô hình trong cân bằng Panel:
- Từ 1999:
+ Các quốc gia công nghiệp gia tăng ổn định tỷ giá.
+ Những quốc gia đang phát triển tiếp tục duy trì
quanh mức giữa của tỷ giá linh hoạt.
Những mô hình trong cân bằng Panel:
Sự khác biệt giữa những quốc gia thị trường tài
chính phát triển và thị trường tài chính chưa phát
triển trong những QG đang phát triển nhỏ hơn giữa
mô hình IDC và LDC.
Sự lan tỏa liên quan đến vấn đề độc lập tiền tệ và
mở cửa tài chính.
Những mô hình trong cân bằng Panel:
Những mô hình trong cân bằng Panel:
Những mô hình trong cân bằng Panel:
Hình 6 chỉ ra đường phát triển liên quan của
những chỉ số với nhau.
Sự khác biệt rõ nét giữa các quốc gia IDC và LDC:
- Cuối 1990, chính sách được các nước IDC đẩy
mạnh là mở cửa thị trường tài chính và ổn định tỷ
giá.
- Trong khi, chính sách ổn định tỷ giá là chính
sách chính trong thời gian này của các nước LDC.
1.3. Nhận diện sự đổ vỡ trong cấu trúc tài chính:
Dự đoán trên các sự kiện chủ yếu:
- Sự sụp đổ của hệ thống Bretton Wood 1973
- Khủng hoảng nợ Mexico 1982
- Cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997-1998
1.3. Nhận diện sự đổ vỡ trong cấu trúc tài chính:
Kết quả của các chỉ số cho thấy:
- Sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Wood, các
quốc gia trong hệ thống có chỉ số tỷ giá hối đoái từ
0,55 đến 0,45; trong khi chỉ số mở cửa tài chính
tăng nhẹ từ 0,44 đến 0,47.
- Trong khi, các quốc gia có thị trường chưa nổi có
mức tăng ổn định trong chỉ số tỷ giá còn các quốc
gia LDC có thị trường phát triển hướng đến tỷ giá
thả nổi nhiều hơn.
1.3. Nhận diện sự đổ vỡ trong cấu trúc tài chính:
Khủng hoảng nợ Mexico 1982:
- Những nước công nghiệp tiếp tục gia tăng chính
sách tỷ giá hối đoái linh hoạt và mở cửa tài chính,
chính sách tiền tệ độc lập không thay đổi.
- Các nước đang phát triển theo đuổi chính sách tỷ
giá hối đoái linh hoạt và chính sách tiền tệ độc lập.
- Những nước có thị trường tài chính chưa nổi lại
thắt chặt kiểm soát nguồn vốn và kết quả là khủng
hoảng nợ trong khi những nước có thị trường tài
chính phát triển đã không thay đổi chính sách của
mình
1.3. Nhận diện sự đổ vỡ trong cấu trúc tài chính:
Khủng hoảng châu Á 1997- 1998
- Mức độ chính sách tiền tệ độc lập của những quốc
gia công nghiệp giảm, trong khi chính sách ổn định
tỷ giá và tự do hóa dòng vốn được thực thi.
- Những nước đang phát triển thị trường tài chính
chưa nổi theo đuổi chính sách hội nhập tài chính và
tỷ giá hối đoái linh hoạt và tiền tệ độc lập.
- Những nước có thị trường tài chính mới nổi bắt
đầu tự do hóa thị trường tài chính cao nhưng giảm
chính sách tiền tệ độc lập trong khi lại theo đuổi
chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt.
1.3. Nhận diện sự đổ vỡ trong cấu trúc tài chính:
Kết quả kiểm định các giả thiết:
- Những nước công nghiệp có thể bị đổ vỡ cấu trúc
tài chính là do đã áp dụng đồng thời ba chính sách
này năm 1990.
- Các nước có thị trường tài chính chưa nổi, sự đổ
vỡ cấu trúc tài chính năm 1990 là do áp dụng các
chính sách của bộ ba bất khả thi; trong khi đối vớ
các nước có thị trường tài chính mới nổi, sự đổ vỡ
cấu trúc tài chính đó là chính sách tiền tệ độc lập
năm 2001, chính sách tỷ giá hối đoái cố định năm
1990, và tự do hóa tài chính năm 1997-1998
1.3. Nhận diện sự đổ vỡ trong cấu trúc tài chính:
So sánh thống kê ở góc độ sự đổ vỡ cấu trúc tài
chính của từng chỉ số và nhóm nhỏ các quốc gia
cho thấy:
- Đối với những nước đang phát triển có thị trường
tài chính chưa nổi và mới nổi thì sự đổ vỡ cấu trúc
tài chính do chính sách tiền tệ độc lập và tỷ giá hối
đoái cố định đã xảy ra vào năm 1982 và 2001.
- Sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods là sự kiện
đáng chú ý nhất đối với những nước đang phát triển
thị trường tài chính chưa nổi theo đuổi chính sách
tự do hóa tài chính.
- Cuộc khủng hoảng Châu Á là sự kiện nổi bật của
những nước có thị trường tài chính mới nổi.
2. Mối quan hệ tuyến tính của các chỉ số bộ ba
bất khả thi:
Nghiên cứu sự đánh đổi trong việc thực thi
bộ ba bất khả thi.
Kiểm tra có hay không việc tổng hợp ba
chính sách thay đổi bằng một hằng số.
Mô hình:
1 = aj Mii,t + bj ERSi,t + cjKAOPENi,t + et (1)
(j có thể là IDC, ERM hoặc LDC)
Kết quả cho ở bảng sau:
2. Mối quan hệ tuyến tính của các chỉ số bộ ba
bất khả thi:
Kết quả hồi quy:
- Mục tiêu của 03 chính sách là hoàn toàn có
quan hệ với nhau.
- Các quốc gia đối mặt với sự đánh đổi trong
việc lựa chọn ba chính sách này.
- Qua các giai đoạn khác nhau, sự đánh đổi là
khác nhau.
2. Mối quan hệ tuyến tính của các chỉ số bộ ba
bất khả thi:
2. Mối quan hệ tuyến tính của các chỉ số bộ ba
bất khả thi:
Ở bảng trên cùng, đường màu đậm cho thấy ý nghĩa
của những giá trị ước lượng đối với nhóm các quốc
gia công nghiệp (bên trái) và các nước đang phát triển
(bên phải).
Ý nghĩa của mẫu thử của giá trị ước lượng có độ tin
cậy khoảng 95%.
Kết quả cho thấy, giá trị ước lượng dựa trên mô hình
nằm ở khoảng giá trị 1 đối với 2 nhóm khảo sát.
2. Mối quan hệ tuyến tính của các chỉ số bộ ba
bất khả thi:
Đối với nhóm các nước công nghiệp:
- Dự đoán trung bình được thống kê nhỏ hơn 1 vào
cuối những năm 70, đầu những năm 80 và cuối
những năm 80.
- Từ đầu những năm 90 trở đi, giá trị dự đoán là 1,
cho thấy rằng trilemma có sự liên kết đối với các
quốc gia công nghiệp.
2. Mối quan hệ tuyến tính của các chỉ số bộ ba
bất khả thi:
Đối với những nước đang phát triển:
- Ý nghĩa của ước lượng được thống kê lại
nhỏ hơn 1 từ năm 2000 cho thấy rằng mặc
dù trong vài năm khi trilemma không có sự
liên kết với nhau, ba chính sách kinh tế vĩ mô
có quan hệ tuyến tính với nhau.
2. Mối quan hệ tuyến tính của các chỉ số bộ ba
bất khả thi:
Nhận xét:
- Tại những nước công nghiệp hoá, chính
sách kết hợp giữa gia tăng sự ổn định của tỷ
giá hối đoái và mở rộng tài chính đã trở nên
phổ biến sau những năm đầu của thập niên
90.
- Sự kết hợp giữa sự độc lập về tiền tệ và sự
ổn định của tỷ giá hối đoái đang dần trở nên
xuống dốc qua nhiều năm.
2. Mối quan hệ tuyến tính của các chỉ số bộ ba
bất khả thi:
Nhận xét:
Ở những nước đang phát triển, chính sách kết
hợp giữa sự ổn định của tỷ giá hối đoái và mở
cửa tài chính ít phổ biến hơn so với tại những
nước công nghiệp hoá.
“Chính sách kết hợp giữa độc lập tiền tệ và sự
mở cửa tài chính” hoặc “chính sách kết hợp giữa
sự độc lập về tiền tệ và ổn định tỷ giá hối đoái” là
chủ đạo.
2. Mối quan hệ tuyến tính của các chỉ số bộ ba
bất khả thi:
Nhận xét:
Các nước kém phát triển dần dần gia tăng mức độ
mở cửa thị trường vốn (capital account
openness) từ những năm đầu của thập niên 90,
trong khi vẫn giữ vững mức độc lập tiền tệ cao và
mức độ ổn định tỷ giá hối đoái thấp.
“Chính sách kết hợp giữa độc lập tiền tệ và sự mở
cửa tài chính” hoặc “chính sách kết hợp giữa sự
độc lập về tiền tệ và ổn định tỷ giá hối đoái” là chủ
đạo.
3. Nhận xét, kết luận:
Lý thuyết “bộ ba bất khả thi” cho thấy sự khác biệt trong
lựa chọn chính sách vĩ mô giữa các nước công nghiệp
và các nước đang phát triển trong giai đoạn 1970 -
2006.
Đối với các nước đang phát triển, ba yếu tố của “bộ ba
bất khả thi” có xu hướng hội tụ về một điểm cân bằng
chung.
các nước công nghiệp hướng tới sự kết hợp của sự ổn
định tiền tệ cao, mở cửa thị trường tài chính và mức độ
độc lập tiền tệ thấp.
3. Nhận xét, kết luận:
Những sự kiện quan trọng: sự sụp đổ của hệ
thống Bretton Wood, khủng hoảng nợ năm
1982 và cuộc khủng hoảng Châu Á năm
1997-1998, toàn cầu hoá và việc nổi lên của
Trung Quốc là những tác nhân có ảnh hưởng
quan trọng đến mô hình.
3. Nhận xét, kết luận:
Sự ràng buộc trong “bộ ba bất khả thi”: Một
khi có sự thay đổi một trong 3 yếu tố của “bộ
3 bất khả thi” sẽ dẫn đến thay đổi ngược lại
có trọng số của 2 yếu tố còn lại
PHẦN II: LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN Ở VN
Trong năm 2007, do sự gia tăng lượng ngoại tệ
chảy vào VN dẫn đến khó khăn trong chính sách
giảm giá đồng tiền bất lợi cho xuất khẩu + NK
tăng đột biến thâm hụt cán cân thương mại.
PHẦN II: LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN Ở VN
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tung tiền đồng
để mua vào một lượng lớn ngoại tệ. Trong quí 1,
dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng khoảng 3 tỉ
USD, tương đương với gần 50.000 tỉ đồng được
đưa vào lưu thông.
Việc bơm thêm một lượng lớn tiền đồng vào nền
kinh tế sẽ làm áp lực lạm phát gia tăng.
PHẦN II: LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN Ở VN
Để giảm bớt áp lực gia tăng của chỉ số giá trong
thời gian còn lại của năm 2007, CP lựa chọn biện
pháp tăng dự trữ bắt buộc.
Tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ 5% lên 10%
theo ước tính sẽ có khoảng 40.000-50.000 tỉ đồng
quay trở lại kho của Ngân hàng Nhà nước.
PHẦN II: LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN Ở VN
Bất hợp lý:
- Tăng dự trữ bắt buộc dẫn đến khan hiếm vốn sẽ
đẩy các ngân hàng vào một cuộc đua lãi suất mới
gây bất lợi cho nền kinh tế.
- Mục tiêu đưa tiền vào Việt Nam của các nhà đầu
tư nước ngoài là để tạo ra lợi nhuận với suất sinh
lợi yêu cầu tối thiểu của các khoản đầu tư phải là
15% (theo Giáo sư Ari Kokko, thuộc trường Kinh tế
Stockholm). Việc cất vào trong két làm dự trữ tạo ra
suất sinh lợi thấp hơn 15% rất nhiều khoảng
cách giữa chi phí vốn và suất sinh lợi sẽ rất lớn.
PHẦN II: LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN Ở VN
Bộ ba bất khả thi: Không thể có chính sách
tiền tệ độc lập trong điều kiện cố định tỷ giá
hối đoái và tài khoản vốn được tự do.
Phải chăng cơ quan điều hành chính sách
tiền tệ đang cố gắng thực hiện cùng một lúc
“bộ ba bất khả thi” trên?
PHẦN III: PHẦN MỞ RỘNG
Link
Xin chân thành cảm ơn các bạn
đã lắng nghe!