Trái phiếu là một loại giấy nợ do chính phủ hay doanh nghiệp phát hành để
huy động vốn dài hạn cịn gọi là chứng khốn nợ, cĩ kỳ hạn nhất định, thường 3-5
năm là trung hạn và 7-10 năm trở lên là dài hạn. Cuối kỳ đáo hạn phải trả lại vốn
gốc cho trái chủ.
Mệnh giá là giá trị danh nghĩa của trái phiếu được in ngay trên tờ phiếu, đại
diện cho số tiền được trả tại thời điểm đáo hạn.
Được hưởng lãi cố định và tỷ suất lãi trái phiếu khơng cao nhưng khơng phụ
thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh, ít rủi ro. Trong trường hợp trái phiếu là cơng
trái thì hầu như khơng cĩ yếu tố rủi ro. Tỷ suất lãi trái phiếu là lãi suất danh nghĩa
của trái phiếu qui định mức lãi mà nhà đầu tư được hưởng hàng năm. Thơng thường
cĩ 2 phương thức trả lãi: 6 tháng/lần và 1 năm/lần.
Trong trường hợp là trái phiếu cơng ty, khi cơng ty bị giải thể thanh lý tài sản,
người cầm trái phiếu được ưu tiên trả nợ trước cổ đơng.
20 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1810 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài thuyết trình Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN
MÔN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM
GVHD :PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DỜN
LỚP : NGÂN HÀNG ĐÊM 2 - K16
SVTH : NHÓM 13
TpHCM, 01/ 2008
I. Tổng quan về trái phiếu và thị trường trái phiếu.
1. Trái phiếu:
1.1. Khái niệm:
Trái phiếu là loại chứng khốn xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. (Luật Chứng khốn số
70/2006/QH 11)
1.2. Đặc điểm của trái phiếu:
Trái phiếu là một loại giấy nợ do chính phủ hay doanh nghiệp phát hành để
huy động vốn dài hạn cịn gọi là chứng khốn nợ, cĩ kỳ hạn nhất định, thường 3-5
năm là trung hạn và 7-10 năm trở lên là dài hạn. Cuối kỳ đáo hạn phải trả lại vốn
gốc cho trái chủ.
Mệnh giá là giá trị danh nghĩa của trái phiếu được in ngay trên tờ phiếu, đại
diện cho số tiền được trả tại thời điểm đáo hạn.
Được hưởng lãi cố định và tỷ suất lãi trái phiếu khơng cao nhưng khơng phụ
thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh, ít rủi ro. Trong trường hợp trái phiếu là cơng
trái thì hầu như khơng cĩ yếu tố rủi ro. Tỷ suất lãi trái phiếu là lãi suất danh nghĩa
của trái phiếu qui định mức lãi mà nhà đầu tư được hưởng hàng năm. Thơng thường
cĩ 2 phương thức trả lãi: 6 tháng/lần và 1 năm/lần.
Trong trường hợp là trái phiếu cơng ty, khi cơng ty bị giải thể thanh lý tài sản,
người cầm trái phiếu được ưu tiên trả nợ trước cổ đơng.
1.3. Phân loại trái phiếu:
a. Phân loại theo chủ thể phát hành:
- Trái phiếu chính phủ: do ngân sách chính quyền trung ương hay địa phương
phát hành nhằm mục đích bù đắp các khoản chi đầu tư của ngân sách Nhà nước,
quản lý lạm phát hay tài trợ cho các cơng trình, các dự án của Nhà nước.
Trái phiếu cơng trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho
những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những cơng trình cơ sở hạ tầng hay
cơng trình phúc lợi cơng cộng. Trái phiếu này cĩ thể do chính phủ trung ương hoặc
chính quyền địa phương phát hành.
- Trái phiếu doanh nghiệp: do các doanh nghiệp phát hành (cĩ đủ điều kiện của
UBCK) nhằm mục đích đầu tư dài hạn cho doanh nghiệp, mở rộng quy mơ phát
triển sản xuất kinh doanh.
b.Phân loại theo tính chất chuyển nhượng:
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu cĩ ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên
chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh cĩ thể chỉ thực hiện
cho phần vốn gốc, cũng cĩ thể là ghi danh tồn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh tồn
bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hồn tồn khơng
cĩ dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của
chủ sở hữu trên máy tính.
- Trái phiếu vơ danh: là trái phiếu khơng mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ
cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng
chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng
nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nĩ mang chứng chỉ tới ngân hàng để
nhận lại khoản cho vay.
c. Phân loại theo phương thức trả lãi.
- Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu khơng trả lãi định kỳ. Căn cứ vào lãi
suất thị trường lúc phát hành để định ra giá của trái phiếu, giá này rất thấp so với
mệnh giá gọi là giá chiết khấu, nhưng khi đáo hạn trái chủ lại được hồn lại vốn gốc
bằng với mệnh giá của trái phiếu.
- Trái phiếu lợi tức: là trái phiếu trả lãi suất ổn định và định kỳ thường 6 tháng
hay một năm một lần, nĩ ràng buộc doanh nghiệp nghĩa vụ phải trả lãi trong suốt
thời gian lưu hành trái phiếu.
Ngồi ra, trái phiếu cịn được phân loại theo phạm vi lưu thơng thành: Trái
phiếu quốc nội, và trái phiếu quốc tế. Trái phiếu quốc tế là loại chứng chỉ vay nợ cĩ
mệnh giá, cĩ thời hạn, cĩ lãi phát hành để vay vốn trên thị trường vốn quốc tế. Các
đối tượng phát hành cơng cụ tài chính này thường là chính phủ, các ngân hàng
thương mại, hoặc các doanh nghiệp cĩ nhu cầu sử dụng nguồn vốn quốc tế.
2. Thị trường trái phiếu:
Thị trường trái phiếu đĩng một vai trị rất quan trọng trong nền kinh tế, thực
hiện cơ chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành, qua đĩ thực hiện
chức năng của thị trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền
kinh tế.
Thị trường trái phiếu là thị trường thực hiện giao dịch, mua bán các loại trái
phiếu do chính phủ hoặc cơng ty phát hành. Thị trường trái phiếu bao gồm thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
2.1. Thị trường sơ cấp (primary market):
Đây là nơi mua bán những trái phiếu mới phát hành. Vì thế, trong thực tế
người ta còn gọi thị trường phát hành trái phiếu. Nguồn vốn chủ yếu của thị trường
này là nguồn tiền tiết kiệm của công chúng cũng như một số tổ chức phi tài chính.
Như vậy, thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng của thị trường trái phiếu
đó là mang nguồn tiền nhàn rỗi đến cho người cần sử dụng, đưa tiền tiết kiệm vào
công cuộc đầu tư. Với đặc tính thị trường sơ cấp là nơi phát hành lần đầu tiên trái
phiếu ra công chúng cho nên nó được xem là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát
hành và chỉ tạo ra phương tiện huy động vốn. Vì thế, vai trò của thị trường sơ cấp là
tạo ra hàng hoá cho thị trường giao dịch và là tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Trong thị trường sơ cấp, nhà phát hành (người bán trái phiếu) là người huy động
vốn và người đầu tư mua trái phiếu là nhà đầu tư.
Việc phát hành lần đầu tiên trái phiếu ra công chúng là giai đoạn gay go nhất,
vì nếu không đạt được kết quả thì trái phiếu phát hành sẽ không tiêu thụ được và
làm mất uy tín của đơn vị phát hành. Không phải nhà phát hành nào cũng có đủ điều
kiện để thực hiện tốt việc phát hành nên trên thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ chức
trung gian giữa nhà phát hành và người đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành trái
phiếu.
Tuỳ thuộc vào cung cầu, giá trái phiếu ở thị trường sơ cấp có thể cao hơn hoặc
thấp hơn giá trị danh nghĩa của trái phiếu.
Nhà phát hành sẽ thu được vốn mới chỉ khi những trái phiếu của nó được bán
lần đầu tiên trên thị trường sơ cấp. Sau đó, việc mua bán các trái phiếu này trên thị
trường trái phiếu thứ cấp sẽ không làm ảnh hưởng đến số vốn của người phát hành.
2.2. Thị trường thứ cấp (secondary market):
Đây còn được gọi là thị trường cấp hai, là nơi mua bán các trái phiếu đã được
phát hành trên thị trường sơ cấp. Đây cũng là một bộ phận quan trọng của thị trường
tài chính và có mối quan hệ chặt chẽ với thị trường sơ cấp và khác với thị trường sơ
cấp là nó hoạt động một cách liên tục. Trái phiếu giao dịch trên thị trường này có
thể được mua đi bán lại nhiều lần với giá cả cao thấp khác nhau với tác động của
quan hệ cung cầu và nhiều nhân tố khác. Nhờ có thị trường thứ cấp, những người có
vốn nhàn rỗi tạm thời có thể yên tâm đầu tư vào trái phiếu, vì khi cần tiền họ có thể
bán lại các trái phiếu của mình cho các nhà đầu tư khác trên thị trường.
Thị trường thứ cấp thực hiện các chức năng sau:
- Tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ tài chính nhằm thu tiền mặt, tức
là tạo cho các công cụ tài chính tăng cao tính thanh khoản.
- Kiếm lời từ việc nắm giữ trái phiếu.
- Xác định giá trái phiếu hợp lý trên cơ sở đấu giá tự do.
- Giá hợp lý trên thị trường cấp hai ảnh hưởng đến giá phát hành trái phiếu
trên thị trường sơ cấp.
2.3. Mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp:
Tóm lại, giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. M ối quan hệ giữa 2 thị trường này là mối quan hệ nội tại, trong đó thị
trường sơ cấp là thị trường cơ sở, là tiền đề để cho thị trường thứ cấp hoạt động; thị
trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có trái phiếu
cho thị trường thứ cấp hoạt động; và ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì
thị trường sơ cấp khó có thể hoạt động một cách trôi chảy được. Vì khi đó các loại
trái phiếu rất khó khăn khi phát hành, không ai dám đầu tư vào trái phiếu vì trái
phiếu không thể chuyển đổi thành tiền tệ khi cần, vốn của họ bị ứ động.
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý
thuyết. Trong thực tế, hoạt động của thị trường trái phiếu chúng ta không thể chỉ rõ
ra được đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp, bởi vì trong hoạt động
của thị trường trái phiếu vừa diễn ra việc phát hành trái phiếu vừa diễn ra việc mua
đi bán lại trái phiếu.
II. Thực trạng phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam:
1. Quá trình hình thành và phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam:
Trước năm 1994, tuy chưa cĩ văn bản quy phạm pháp luât nào đề cập về trái
phiếu và các hình thức giao dịc trái phiếu, song đã cĩ một số loại chứng khốn chính
phủ được bán ra thị trương như tí phiếu kho bạc phát hành qua kho bạc giai đoạn
1992 – 1994 huy động được khoảng 13.000 tỷ đồng, trái phiếu cơng trình đường
dây 500kV là 334 tỷ đồng....
Nghị định 72-CP ngày 26/07/1994 ra đời đã chính thức hố hoạt động phát
hành trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên, các quy định trong nghị định này cịn nhiều
hạn chế như: hình thức trái phiếu mới chỉ giới hạn ở tín phiếu kho bạc, trái phiếu
kho bạc và trái phiếu cơng trình; các quy định cịn chung chung, chưa cụ thể, rõ
ràng. Do đĩ, hoạt động phát hành và giao dịch trái phiếu vẫn cịn hạn chế.
Về trái phiếu doanh nghiệp, Chính phủ ban hành nghị định 120/CP ngày
17/9/1994 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp nhà nước, thị trường
trái phiếu bắt đầu manh nha hình thành. Tuy nhiên, phải đến năm 1996, thị trường
trái phiếu doanh nghiệp mới cĩ những bước đột phá mới, khởi đầu bằng việc cơng ty
Cổ phần Cơ điện lạnh (REE) huy động được 5 triệu USD. Năm 1998, cơng ty Cổ
phần Cơng nghệ thơng tin EIS huy động được 10 tỷ.
Cho đến năm 2000 khi thị trường chứng khốn đi vào hoạt động đã đánh dấu
giai đoạn khởi động của thị trường trái phiếu cũng như các loại chứng khốn khác
trên thị trường tài chính. Nghị định 72-CP được thay thế bằng Nghị định
01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 đã cho thấy sự cải thiện về mặt pháp lý cho hoạt
động của thị trường trái phiếu nĩi riêng.
Năm 2003, Tổng cơng ty Dầu khí huy động được 300 tỷ; Tổng cơng ty Xi
măng được 200 tỷ đồng; EVN được 300 tỷ. Việc huy động vốn trên thị trường trái
phiếu trong giai đoạn này hầu như chưa phát triển. Các tổ chức phát hành chủ yếu là
các tổ chức tín dụng và rất ít các doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Tháng 10/2005, Việt Nam đã thành công trong lần đầu tiên phát hành trái
phiếu Chính phủ ra thị trường vốn quốc tế với tổng giá trị huy động 750 triệu USD.
Đợt trái phiếu này sẽ được mua bán lại trên tất cả các trung tâm chứng khoán (thị
trường thứ cấp) lớn như Hongkong, Singapore, London, New York, Boston... liên
tục đến năm 2016. Trong đợt phát hành trái phiếu đầu tiên để huy động vốn cho
ngành đóng tàu. M ức lãi suất của trái phiếu chính phủ Việt Nam hiện đang là
5,78%, thấp hơn mức 5,95% của loại trái phiếu có kỳ hạn và xếp hạng tín dụng
tương đương của Chính phủ Brazil. Điều này chứng tỏ trái phiếu của Việt Nam có
mức độ hấp dẫn hơn. So với trái phiếu Chính phủ kỳ hạn tương đương Mỹ, hiện nay
lãi suất của trái phiếu Việt Nam cũng chỉ cao hơn có 1,25%.
Một loại trái phiếu khác gần đây đã trở thành hiện tượng trên thị trường chứng
khoán Việt Nam là trái phiếu chuyển đổi. Tính hấp dẫn của nó là ở chỗ nó cho phép
nhà đầu tư chyển đổi sang cổ phiếu thường vào một thời điểm nhất định trong tương
lai. Do kì vọng này mà nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận một mức lãi suất rất thấp,
giúp các công ty phát hành nhanh chóng huy động được một số vốn lớn với chi phí
tài chính dễ chịu. Trái phiếu chuyển đổi của Ngân hàng Ngoại thương
(Vietcombank), có mặt trên thị trường tháng 12/2005, được đánh giá là một mặt
hàng rất lợi cho ngân hàng này khi lãi suất trúng thầu chỉ ở mức 6%/năm, thấp hơn
nhiều so với lãi suất trên thị trường vào khoảng 8-10%. Đi đầu trong số này là ngân
hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn (SCB), ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên
ở Việt Nam được phát hành trái phiếu chuyển đổi thực thụ.
Năm 2006 đánh dấu một bước ngoặc mới cho thị trường trái phiếu doanh
nghiệp Việt Nam khi Nghị định 52/2006/NĐ-CP chính thức được ban hành. Theo
đĩ, chủ thể phát hành trái phiếu khơng chỉ là các doanh nghiệp Nhà nước như trước
đây mà cịn cĩ các cơng ty TNHH, cơng ty cổ phần và doanh nghiệp cĩ vốn đầu tư
nước ngồi với một nguyên tắc chung là các doanh nghiệp phải tự vay, tự trả, tự chịu
trách nhiệm và cơng khai minh bạch thơng tin.
Trong năm 2006, Cơng ty Cơng nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) huy
động được 800 tỷ đồng, Tập đồn EVN: 5.000 tỷ đồng. Đến tháng 7/2007, Vinashin
phát hành thêm được 3.000 tỷ đồng, Vilexim được 5 tỷ, Tổng cơng ty thép được
400 tỷ đồng, Vinaconex huy động được 1.000 tỷ đồng.
Quyết định số 2276/2006/QĐ-BTC đã tạo ra một thị trường đấu thầu trái phiếu
hoạt động thường xuyên, hiệu quả hơn, tạo được niềm tin cho các thành viên tham
gia thị trường. Hoạt động đấu thầu trái phiếu chính phủ bước đầu góp phần đáp ứng
nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế và cho các dự án đầu tư trọng điểm, từng
bước nâng cao tỷ trọng trái phiếu/GDP. Đã có hơn 400 mã trái phiếu với giá trị
niêm yết là 85.321 tỷ đồng, tính bình quân giao dịch trái phiếu 6 tháng đầu năm
2007 là 351,29 tỷ đồng/ngày. Thị trường trái phiếu Việt Nam được cấu thành từ một
số yếu tố cơ bản, đó là các tổ chức phát hành trái phiếu để thu hút nguồn vốn vay
trung và dài hạn, các nhà đầu tư, các trung gian, cơ sở hạ tầng trong đó có khung
pháp lý tạo môi trường cho hoạt động phát hành và giao dịch trái phiếu.
Trung tuần tháng 3/2007, 300 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ lần đầu tiên được
phát hành đấu thầu theo lô lớn (lô 100, 200, 300... tỷ đồng) đã được các nhà đầu tư
nước ngoài mua hết với mức lãi suất thấp nhất trong vòng ba năm trở lại đây
6,8%/năm. Từ sau lần này, những đợt phát hành tiếp theo lãi suất trái phiếu sẽ cố
định, nhưng mệnh giá sẽ thay đổi. Giá trái phiếu sẽ không là 100.000 đồng nữa, mà
có thể xuống 99.000-98.000 đồng hay lên 101.000-102.000 đồng. Sức hấp dẫn của
trái phiếu càng cao, thì giá trúng thầu sẽ càng thấp hơn mệnh giá và ngược lại.
Tính đến 15/10/2007, tổng giá trị vốn hoá trên thị trường trái phiếu đạt gần
114.000 tỷ đồng chiếm 11,7% GDP 2006.
2. Cơ cấu của các loại hình trái phiếu ở Việt Nam:
Thị trường trái phiếu ở nước ta hiện nay bao gồm các bộ phận cấu thành là thị
trường trái phiếu chính phủ; trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu cơng
ty, trong đĩ cĩ các cơng ty nhà nước và cơng ty thuộc khu vực tư nhân.
_ Trái phiếu chính phủ: 80%
_ Trái phiếu chính quyền địa phương: 10%.
_ Trái phiếu doanh nghiệp: 10% (trong số đĩ chủ yếu là các tổng cơng ty lớn
như Vinaconex, EVN, Vinashin, Sơng Đà…).
Cơ cấu này thể hiện sự bất hợp lý và chứng tỏ thị trường trái phiếu Việt Nam
chưa phát triển. Hàng hĩa hàng hố chủ yếu là trái phiếu chính phủ, vẫn chiếm tới
80% tổng lượng trái phiếu phát hành, trong khi đĩ trái phiếu cơng ty mới là yếu tố
quyết định sự sơi động và sức hấp dẫn của thị trường này. Thị trường trái phiếu
doanh nghiệp ở Việt Nam cịn hạn chế do độ tin cậy của phần lớn các doanh nghiệp
đối với nhà đầu tư chưa cao, các trái phiếu chưa được định hạn cũng như những hạn
chế khách quan về quy mơ hoạt động, hệ thống kế tốn - kiểm tốn, định mức tín
nhiệm. Đối với thị trường nhỏ, các nhà đầu tư thường băn khoăn về tính thanh
khoản. Nếu như trái phiếu chính phủ cĩ mức rủi ro thanh tốn thấp, tạo được sự tin
cậy thì các nhà đầu tư lại tỏ ra khá dè dặt với trái phiếu doanh nghiệp. Thị trường
chưa phong phú do số nhà phát hành nhỏ, số lượng trái phiếu phát hành cịn thấp nên
nhà đầu tư cĩ rất ít lựa chọn.
3. Đánh giá về thị trường trái phiếu Việt Nam:
Nhìn chung quy mô của thị trường còn nhỏ, cơ sở hạ tầng thanh toán trong hệ
thống tài chính Việt Nam vừa yếu vừa thiếu đang là những mặt hạn chế đối với sự
phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam. Cụ thể bao gồm một số điểm sau:
Trước hết, quy mô của trái phiếu khoảng cuối năm 2007 tổng giá trị khoảng
trên 70 nghìn tỷ đồng Việt Nam, chỉ bằng 7,7% GDP, một tỉ lệ khá thấp so với thị
trường trái phiếu của các nước trong khu vực (bình quân khoảng 50-70%, trừ Nhật
Bản trên 100%).
Huy động vốn thông qua loại hình trái phiếu hiện chưa phải là kênh phổ biến
mà chủ yếu là thông qua hệ thống ngân hàng với tổng tài sản chiếm đến 80% cơ cấu
tài sản tài chính. Điều này tạo sự bất cân xứng trong kỳ hạn huy động vốn và cho
vay của hệ thống ngân hàng, thiếu một kênh huy động vốn dài hạn để phục vụ cho
các mục tiêu phát triển lâu dài. Cả hai yếu tố này đều góp phần làm tăng chi phí vốn
cho nền kinh tế.
Mặt khác, lượng trái phiếu phát hành bằng đồng nội tệ hiện chủ yếu được giao
dịch hoặc nắm giữ bởi các ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính tương đương cũng
làm cản trở sự phát triển của thị trường trái phiếu. Điều này tạo sự đơn điệu trong
danh mục đầu tư, dẫn đến giá trái phiếu có mức biến động đáng kể khi các nhà đầu
tư này thực hiện bán ra hoặc mua vào.
Trái phiếu chính phủ Việt Nam hiện nay vẫn được phát hành manh mún, lẻ tẻ,
nhiều loại, nhiều kỳ hạn khác nhau. Khối lượng phát hành mỗi đợt tương đối nhỏ
chỉ khoảng 20 - 30 triệu USD/đợt khó thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư có tổ
chức và vì vậy cũng làm giảm sức hấp dẫn của trái phiếu chính phủ.
Thể chế pháp luật còn thiếu các qui định cần thiết nên hạn chế sử dụng các
công cụ bảo hiểm rủi ro như hoán đổi lãi suất, mua bán kỳ hạn hay tái mua lại nhằm
giúp nhà đầu tư có thể bảo vệ rủi ro cho mình.
Hàng hố giao dịch trên thị trường trái phiếu chủ yếu là trái phiếu Chính phủ
nên chưa tạo được sức hấp dẫn cho nhà đầu tư. Trái phiếu doanh nghiệp, mặc dù cĩ
nhiều ưu điểm nhưng hiện tại chưa phải là một kênh huy động vốn được nhiều
doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp cho đến cuối
tháng 11/2007, vẻn vẹn chỉ cĩ 12 doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Sau 1 năm thực hiện Nghị định 52, trên thị trường trái phiếu quanh đi quẩn lại cũng
chỉ cĩ vài gương mặt cũ tham gia, như: Vinashin, Tổng cơng ty Thép Việt Nam,
Tổng Cơng ty Sơng Đà, Tập đồn Điện lực (ngồi Vinaconex huy động 1.000 tỉ đồng,
Vilemim huy động 5 tỉ đồng...).
Nhiều đợt đấu giá trái phiếu Chính phủ gần đây mặc dù khối lượng đăng ký
đấu thầu tương đối cao, bình quân gấp 3 lần khối lượng gọi thầu, nhưng tỉ lệ thành
cơng lại cĩ xu hướng giảm dần. Cụ thể, quý I/2007 tỉ lệ thành cơng đạt 99%; quý
II/2007 giảm xuống 82,46% và đến cuối quý III/2007 giảm cịn 58,39%. Nguyên
nhân chủ yếu do việc đưa ra mức lãi suất trần thấp, chỉ 7,05 - 7,8%/năm (cĩ đợt chỉ
là 6,5%/năm) đối với trái phiếu kỳ hạn 5 năm; 7,95% - 8,6%/năm đối với trái phiếu
kỳ hạn 10 năm; 8 - 8,8%/năm đối với trái phiếu kỳ hạn 15 năm, trong khi kỳ vọng
về lãi suất của nhà đầu tư ngày một cao, xuất phát từ việc tăng dự trữ bắt buộc từ
5% lên 10%.
Phần lớn giao dịch chỉ tập trung ở thị trường sơ cấp, ở thị trường thứ cấp khối
lượng giao dịch trái phiếu rất "nhỏ giọt". M ột phần vì tâm lý nhà đầu tư thích nắm
giữ trái phiếu chờ đến ngày đáo hạn để hưởng lãi. Một phần vì chi phí giao dịch trái
phiếu ở Việt Nam quá cao. Theo quy định, việc giao dịch trái phiếu chính phủ phải
thơng qua các cơng ty chứng khốn- là tổ chức trung gian thu phí cả người mua lẫn
người bán. Để một giao dịch trái phiếu chính phủ 100 tỉ đồng được hồn tất thì nhà
đầu tư phải mất đến cả 100 triệu đồng tiền phí, mà thơng thường những giao dịch
mua bán trái phiếu chính phủ là những giao dịch lớn, ít nhất cĩ giá trị từ 100-300 tỉ
đồng. Chính điều này làm cho thị trường trái phiếu chính phủ của Việt Nam khơng
thu hút được nhiều nhà đầu tư giao dịch, nhất là các ngân hàng nước ngồi.
Hệ thống thanh tốn chưa cĩ sự liên thơng giữa các thị trường trong