Bài thuyết trình môn: Luận văn lí học

Macxin Gorki tên thật là A-lếch-xây Mác-xi-mô-vich Pê-scốp. Sinh ngày 28 tháng ba năm 1868 ở thị xã Ni-giơ-ni Nô-vơ-gô-rốt nước Nga. - Cha là thợ mộc, một người khéo tay, một người có học và hiểu biết. - Năm 4 tuổi ông mồ côi cha và đến năm 10 tuổi thì mồ côi mẹ và sống với ông bà ngoại, ông Gorki là một tiểu chủ làm nghề nhuộm. Ông ngoại hà tiện, hung hãn, thường hay đánh cháu. Nhưng bà ngoại hiền từ, biết nhiều chuyện cổ tích, nhớ nhiều bài dân ca, thường kể, hát cho cháu nghe chính điều này đã tạo cho Gorki một vốn văn học dân gian phong phú. - Gorki đi học được 3 năm thì gia đình ông bà ngoại sa sút, phải thôi học, lao động để nuôi thân, khi thì đi ở,khi thì làm phụ rửa bát dưới tàu thủy. Cuối cùng Gorki rời quê hương, đi tìm kế sinh nhai, ông đi từ Ca-dan đến bờ biển Ca-spiên. Trong thời gian ấy Gorki làm đủ các nghề để kiếm sống: gác cổng, khuân vác, cưa gỗ, làm bánh mì, cân hàng, .v.v Trong cảnh sống đó , Gorki đã học được rất nhiều ở trường đời, kinh nghiệm được mở rộng. - Gorki là người rất ham đọc sách và đã có hiểu biết sâu về văn học thế giới từ lúc còn thiếu niên. - Năm 16 tuổi, khi ở Ca-dan, Gorki làm quen với nhóm thanh niên cách mạng, với giới tri thức địa phương. Không được chính thức làm sinh viên đại học, Gorki quyết tâm tự nghiên cứu các tác phẩm của các nhà văn dân chủ cách mạng. - Năm 19 tuổi, Gorki tham gia nhóm Mác-xít và bắt đầu hoạt động cách mạng. - Năm 21 tuổi, Gorki đã có một vốn tri thức phong phú, ông trở về quê, làm thư kí giúp việc cho một luật sư. Năm 1891, Gorki tiến hành một cuộc “đi thực tế” lớn trong nược Nga: dọc song Vôn-ga, Qua các thảo nguyên vùng sông Đông, các vùng U-cơ-ren, Bét-xa-ra-bi, dọc bờ biển Hắc Hải, tới Cơ-ri-mê, Cáp-ca-dơ. Trên đường đi ông đã gặp những người nông dân, công nhân khuân vác, công nhân nhà máy; ông đã cùng ăn, cùng sống và lao động với họ. Chuyến đi này làm cho kinh nghiệm sống của Gorki thêm phong phú, thúc đẩy ông vào con đường sáng tác văn học.

doc12 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5579 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài thuyết trình môn: Luận văn lí học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN: LÍ LUẬN VĂN HỌC 3 Nhóm: 07 Tác phẩm: Người Mẹ. (Macxim Gorki) I. TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM Tác Giả: - Macxin Gorki tên thật là A-lếch-xây Mác-xi-mô-vich Pê-scốp. Sinh ngày 28 tháng ba năm 1868 ở thị xã Ni-giơ-ni Nô-vơ-gô-rốt nước Nga. - Cha là thợ mộc, một người khéo tay, một người có học và hiểu biết. - Năm 4 tuổi ông mồ côi cha và đến năm 10 tuổi thì mồ côi mẹ và sống với ông bà ngoại, ông Gorki là một tiểu chủ làm nghề nhuộm. Ông ngoại hà tiện, hung hãn, thường hay đánh cháu. Nhưng bà ngoại hiền từ, biết nhiều chuyện cổ tích, nhớ nhiều bài dân ca, thường kể, hát cho cháu nghe chính điều này đã tạo cho Gorki một vốn văn học dân gian phong phú. - Gorki đi học được 3 năm thì gia đình ông bà ngoại sa sút, phải thôi học, lao động để nuôi thân, khi thì đi ở,khi thì làm phụ rửa bát dưới tàu thủy. Cuối cùng Gorki rời quê hương, đi tìm kế sinh nhai, ông đi từ Ca-dan đến bờ biển Ca-spiên. Trong thời gian ấy Gorki làm đủ các nghề để kiếm sống: gác cổng, khuân vác, cưa gỗ, làm bánh mì, cân hàng, .v.v… Trong cảnh sống đó , Gorki đã học được rất nhiều ở trường đời, kinh nghiệm được mở rộng. - Gorki là người rất ham đọc sách và đã có hiểu biết sâu về văn học thế giới từ lúc còn thiếu niên. - Năm 16 tuổi, khi ở Ca-dan, Gorki làm quen với nhóm thanh niên cách mạng, với giới tri thức địa phương. Không được chính thức làm sinh viên đại học, Gorki quyết tâm tự nghiên cứu các tác phẩm của các nhà văn dân chủ cách mạng. - Năm 19 tuổi, Gorki tham gia nhóm Mác-xít và bắt đầu hoạt động cách mạng. - Năm 21 tuổi, Gorki đã có một vốn tri thức phong phú, ông trở về quê, làm thư kí giúp việc cho một luật sư. Năm 1891, Gorki tiến hành một cuộc “đi thực tế” lớn trong nược Nga: dọc song Vôn-ga, Qua các thảo nguyên vùng sông Đông, các vùng U-cơ-ren, Bét-xa-ra-bi, dọc bờ biển Hắc Hải, tới Cơ-ri-mê, Cáp-ca-dơ. Trên đường đi ông đã gặp những người nông dân, công nhân khuân vác, công nhân nhà máy; ông đã cùng ăn, cùng sống và lao động với họ. Chuyến đi này làm cho kinh nghiệm sống của Gorki thêm phong phú, thúc đẩy ông vào con đường sáng tác văn học. - Ngày 12 tháng 9 năm 1892, truyện ngắn Ma-ca dơ Tru-ca-dơ là tác phẩm đầu tay của ông được đăng báo và kí tên M. Gorki. - Trong những năm từ 1892 đến 1897, ông viết nhiều tác phẩm vừa mang tính chất lãng mạng vừ có tính chất hiện thực như: Cô gái và thần chết, Bà lão I-déc-ghin, Ông A-rơ-khip và cháu Li-on-ca, Bài ca chim ưng…Năm 1899 những tác phẩm của Gorki được xuất bản thành 2 tập nhan đề là Tùy bút và truyện từ đó Gorki nổi tiếng khắp cả nước. - Năm 1905 ông tham gia công tác đảng ở Ni-giơ-ni Nô-vơ-gô-rốt, công tác trong công nhân và sinh viên, tổ chức nhà in bí mật. Những cảm tưởng và kinh nghiện tích lũy trong thời kì ấy đã phục vụ cho đề tài cho cuốn tiểu thuyết Người mẹ. - Năm 1907, Gorki tham dự Đại hội lần thứ V của Đảng, tại đây ông đã nhiều lần gặp và nói chuyện với Lê-nin.Trong những năm đầu của cuộc Cách mạng Tháng Mười Gorki tích cực góp phần xây dựng nền văn hóa văn nghệ mới xã hội chủ nghĩa. - Những năm 1918-1919 Gorki tích cực tham gia các tổ chức của Đảng và viết nhiều bài cộng tác cho các tờ báo lớn. - Từ 1921 đến 1928, ông sống tại Ý để trị bênh. Tại đây ông cũng viết nhiều tác phẩm cổ vũ cho phong trào cách mạng. - Từ tháng 8-1928 đến cuối năm, Gorki lại tiến hành một cuộc hành trình lớn trên đất nước Liên Xô vĩ đại và viết hàng loạt bút kí. - Năm 1934, Hội nhà văn Xô Viết được thành lập, ông được bbầu làm chủ tịch hội. - Gorki mắc bệnh nặng và qua đời vào ngày 18 tháng sáu năm 1936 trong niềm thương tiếc vô hạn của nhân dân Liên Xô, toàn thể nhân dân cần lao và các nhà văn hóa tiến bộ trên thế giới. 2. Tác Phẩm: - Tác phẩm Người mẹ ra đời khoãng năm 1906, lúc Gorki ra nước ngoài để tránh sự khủng bố của Nga hoàng, đồng thời tuyên truyền cho cách mạng Nga ở Mỹ. -Tác phẩm gồm có phần I: 29 chương và phần II: 26 chương. - Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Gorki, cuốn tiểu thuyết Người mẹ chiếm một vị trí quan trọng bậc nhất. Đó là tác phẩm đầu tiên của phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nó là một cái mốc đánh dấu một bước ngoặc căn bản trên con đường phát triển của văn học nghệ thuật thế giới. - Người mẹ phản ánh hiện thực xã hội nước Nga trong những năm đầu của thế kỉ XX, khi giai cấp vô sản Nga được Đảng Bôn-sê-vích lãnh đạo đang chuẩn bị tiến hành cuộc cách mạnh Nga lần thứ nhất, cách mạng 1905. - Chủ đề của tác phẩm là sự hình thành của đội ngũ cán bộ cách mạng, sự nãy nở ý thức cách mạng của hàng triệu người trong quần chúng nhân dân, trước hết là trong giai cấp công nông, sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản ở Nga, dưới sự lảnh đạo của Đảnh và Lê-nin. Sự phát triển của phong trào đó được thể hiện trong tác phẩm như là quá trình kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội khoa học. Tác phẩm còn ca ngợi vẻ đẹp của con người mới, con người xã hội chủ nghĩa ra đời trong đấu tranh cách mạng. - Người mẹ bằng hình thức nghệ thuật điêu luyện đã tham gia đắc lực vào cuộc đấu tranh tư tưởng của Đảng chống lại khuynh hướng tự phát trong phong trào công nhân. Lê-nin đánh giá rất cao sự cống hiến đó của Người mẹ. Người nói: “Đó là một cuốn sách rất cần, nhiều công nhân tham gia phong trào cách mạng một cách vô ý thức, tự phát, và bây giờ học đọc cuốn Người mẹ sẽ là điều rất có ích đối với họ”. Cuốn tiểu thuyết nhanh chóng đuợc dịch và giới thiệu ở nhiều nước Âu, Mỹ, và trở thành sách “gối đầu giường” của các chiến sĩ cách mạng, của anh em công nhân. 3. Tóm tắt tác phẩm: Mở đầu tác phẩm là khung cảnh xóm thợ với tràn ngập trong cuộc sống tăm tối, không lối thoát của những người công nhân, họ làm việc quần quật suốt ngày này sang ngày khác mà chỉ hưởng được đồng lương ít ỏi. Cuộc sống của họ chìm trong tẻ nhạc với rượu Vốt-ca, những cuộc ăn chơi, nhãy múa, đánh nhau, văng tục nhau… và về nhà đánh đập vợ con không tiếc tay. Cuộc sống như thế cứ tiếp diễn với họ từ đời này sang đời khác. Bác thợ nguội Mi-kha-in cũng sống một cuộc sống như thế,bác là một tay thợ nguội giỏi nhất trong nhà máy, nhưng vì đối xử thô bạo với cấp trên nên bác chỉ hưởng được một đồng lương ít ỏi. Vợ bác là Pê-la-gây-a Ni-lôp-na, một người đàn bà đau khổ, nhẫn nhục, một người vợ luôn sợ chồng và là một người mẹ hiền từ nhưng nhu nhựơc. Cũng như tất cả mọi công nhân khác, bác sống một cuộc sống bế tắc, luôn luôn giận dữ và muốn chút giận vào tất cả mọi thứ. Bác chết vì bệnh sa ruột vào một buổi sáng khi tiếng còi nhà máy báo giờ làm. Sau khi bác mất, con trai bác Pa-ven Vơ-la-xôp cũng bắt đầu tập dần theo bố: trưng diện như bao thanh niên khác, uống rượu Vôt-ca và về nhà quát mắng mẹ, nhưng những lời nói, những cử dịu dàng và những giọt nước mắt của bà mẹ hiền từ đã làm anh vô cùng hối hận về những việc làm của mình. Từ đó anh làm việc hăng say và xa dần con đường mòn của tất cả các bạn. Pa-ven bắt đầu đọc ngày càng nhiều sách và đối xữ dịu dàng hơn với mẹ. Điều đó làm mẹ anh rất mừng và ngạc nhiên, bà bắt đầu theo dỏi con mình. Một hôm Pa-ven trở nên nghiêm nghị và nói với mẹ là mình đang đọc những sách cấm và có thể bị bắt nếu bị phát hiện, những điều Pa-ven nói làm cho mẹ anh rất bối rối và lo sợ, nhưng bà cũng rất tự hào vì đứa con mình đã nòihiểu đúng về cuộc đời bà và thương bà. Một hôm, Paven nói với bà là sẽ có các bạn đồng chí của anh ghé nhà mình. Bà rất lo sợ và nghĩ rằng họ là những người ghê gớm, những người phản cách mạng, nhưng khi tiếp xúc với họ bà đã có cách nghĩ khác. Andơrây dáng điệu điềm tỉnh, giọng nói dịu dàng. Natasa một thanh nữ nhỏ nhắn, vẻ mặt giản dị của người dàn bà nông dân và những người bạn khác của Paven, tất cả đã làm bà mẹ yên lòng. Những cuộc họp ở nhà bà ngày càng gây sự chú ý cho những người trong xóm, bọn Sen Đầm (Cảnh sát dưới chế độ Nga hoàng) thường chú ý và đến lụt soát nhà bà, Anđơrây và Vêsôpsicốp bị bắt. Sau đó xãy ra vụ “đồng côpếch để lấp cạn vũng lầy”, sau nhà máy có một vũng lầy khá rộng bao quanh cái nhà máy bằng một cái vành đai hôi thối. Những tên quản lí nhà máy muốn lấp vũng lầy bằng cách trừ bớt vào lương của công nhân 1đồng, và điều đó làm cho công nhân rất bất bình. Họ đã tìm đến Paven nhờ anh giúp họ đòi lại công bằng. Và Paven đã đứng lên kêu gọi các anh em công nhân đình công đòi bọn giám đốc nhà máy phải bãi bỏ quyết định kia, nhưng cuộc đấu tranh còn ít người tham gia và tiến hành một cách rụt rè, nhanh chống thất bại. Paven bị bắt. Bà mẹ rất buồn và lo cho con. Sau đó vì muốn cứu Paven, bà đã làm theo lời Êgô, một người đồng chí của con giả làm một người bán hàng mang những truyền đơn và sách cấm vào nhà máy để đánh lạc hướng bọn cầm quyền, và bà rất sung sướng vì đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Rưbin là một hàng xóm của bà, xuất thân từ tầng lớp nông dân. Anh cảm phục Paven và các đồng chí của anh nhưng bác ta lại không tin vào những người lãnh đạo cách mạng vì cho rằng đứng sau họ là tầng lớp quí tộc, nên bác đã ra đi tự mình kêu gọi nông dân, tuy lo sợ cho bác nhưng bà mẹ tỏ ra ủng hộ bác. Một thời gian sau Paven và Anđơrây ra tù. Lúc này theo sự chỉ đạo của một tổ chức Đảng Paven và các đồng chí của mình gấp rút chuẩn bị tổ chức một cuộc mít-tinh biểu tình, tuần hành nhân ngày 1 tháng 5. Paven cương quyết cầm cờ và đi đầu để cổ vũ tinh thần công nhân dù biết rằng mình sẽ bị bắt và tù đày. Cuộc mít-tinh diễn ra và được đông đảo anh em công nhân tham gia, họ giương cao ngọn cờ Đảng, hát vang bài “Quốc tế ca”, bà mẹ luôn theo sát Paven và Anđơrây tham gia vào đoàn người biểu tình. Bọn cầm quyền đàn áp rất dã man cuộc biểu tình, cờ Đảng bị gẫy, Paven và các đồng chí bị bắt, bà mẹ cầm cán cờ gẫy đi thẩn thờ trong đám đông. (Kết thúc phần I ). Sang phần II , vì đảm bảo sự an toàn cho bà mẹ, Nicôlai Ivanovich đã đón bà về thành phố sống với anh. Tại đây bà tiếp tục cùng với Xôphia (chị của Nicôlai) mang truyền đơn xuống các vùng nông thôn, tại đây bà gặp lại bác nông dân Gưbin và Xavêli-một người nông dân bị bốc lột sức lao động sắp chết. Họ đã tuyên truyền cách mạng ở đó. Êgô mất và trong đám tang của người chiến sĩ cách mạng này đã xãy ra những cuộc xô xát giữa đoàn người đưa tang quá khích và binh lính. Và trong một lần mang truyền đơn về vùng quê, bà đã chứng kiến cảnh bon Sen Đầm bắt và đánh đạp dã man bác Rưbin, trước sự phản ứng mạnh mẽ của những người dân muốn bảo vệ cho bác. Lúc này, một đồng chí của Paven là Xacenca, muốn tổ chức cho anh vượt ngục nhưng anh không đồng ý. Tuy buồn nhưng bà mẹ rất hiểu và ủng hộ con anh. Và trước tòa án Nga hoàng, anh và các đồng chí đã chuyển thế bị can thành công tố, đanhn thép lên án cái chế đọ xã hội thối nát nhất định phải nhường chổ cho chế độ mới, chế độ XHCN. Bà mẹ rất tự hào về anh, mặc dù anh phải nhận một bản án đã đinh sẳn từ trước là đày sang Xiberi Tác phẩm khép lại bằng cảnh Người mẹ bị bọn mật thám theo dỏi và bắt được khi bà mang những truyền đơn ghi lại những lời nói đanh thép của con bà trước tòa án Nga hoàng đến cho Na-ta-sa tuyên truyền rộng rãi ra cho mội người. Biết mình bị theo dỏi bà đinh bỏ chạy nhưng vì lòng thương con, bà đã can đảm ở lại. Khi bị bắt bà không hề khiếp sợ, bà tung truyền đơn vào nhân dân, hùng hồn vạch mặt bọn thống trị tàn ác trước sự đánh đập của bọn mật thám. II. CƠ SỞ HÌNH THÀNH 1. Cơ sở xã hôi: Cơ sở xã hội của CNHT XHCN là thực tiển đấu tranh của giai cấp công nhân. Thế kỉ XX là thế kỉ chứng kiến sự trưởng thành của giai cấp công nhân, từ chổ một giai cấp tự phát trở thành một giai cấp tự giác, đấu tranh không khoan nhượng chống bốc lột của chủ nghĩa tư bản. Phong trào đấu tranh của họ trong thời gian này có phương hướng rõ rệt, có trình độ tổ chức cao và đặc biệt, có sự kết hợp chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội khoa học. Phong trào đấu tranh này ngày càng phát triển sâu rộng và giành được thắng lợi ở nhiều nơi trê thế giới. 2. Cơ sở tư tưởng: Cơ sở tư tưởng của CHHT XHCN là chủ nghĩa Mác, một học thuyết đấu tranh cho quyền lợi của những người vô sản. Năm 1948 Tuyên ngôn đảng công sản được công bố, chủ nghĩa Mac chính thức được ra đời đã đem lại cho giai cấp công nhân con đường, giải pháp, tổ chức đấu tranh. Đó cũng là cơ sở hiện thực cho những sáng tác hiện thực XHCN đầu tiên, tiêu biểu là bài Quốc tế ca. Có nguồn gốc sâu xa từ Đức nhưng CNHT XHCN lại chính thức xuất hiện đầu tiên ở Nga, quê hương hương đầu tiên của phương pháp sáng tác mới mẽ này. Có hai nguyên nhân căn bản: + Thứ nhất là do truyền thống văn học. Văn học Đức tuy sâu sắc về mặt ý thức nhưng trừu tượng do lối tư duy tư biện, trong lúc đó văn học Nga thế kỉ XIX còn vang vọng nhiều âm hưởng của CNHT thời phục hưng. Hơn nữa, nod còn gắn liền với phong trào giải phóng nông nô và dần dần được chỉ đạo bởi tư tưởng dân chủ cách mạng – những cơ sở xã hội và ý thức hệ tiếp cận với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và chủ nghĩa Mác-Lênin. Vả lại, bất kì một phương pháp sáng tác mới nào cũng đánh dấu sự ra đời chính thức của mình qua một tài năng sáng tác nào đó, mà phương pháp sáng tác hiện thức XHCN lại có được tài năng của Goóc-ki, một nhà văn Nga. + Thứ hai là do cơ sở xã hội và ý thức hệ, hay nói đúng hơn là sự kết hợp giữa hai mặt đó. Mặc dù chủ nghĩa xã hội khoa học đã phát triển mạnh mẽ nhueng phong trào công nhân Tây Âu nữa sau thế kỉ XIX vẫn còn non yếu và cuối cùng, công xã Pari đã bị dim trong bể máu của sự thất bại. Sau đó, Mac và Ănghen qua đời, chủ nghĩa Mac bị xuyên tạc đẩn đến hậu quả là cách mạng đi đến chổ thoái trào. Trung tâm cách mạng chuyển từ Tây Âu sang Đông Âu, từ Pari sang Pêtecpua, bởi vì chủ nghĩa Mác không những được bảo vệ mà còn phát triển thành chủ nghĩa Mac-Lênin ở Nga. III. NGUYÊN TẮC SÁNG TÁC 1. Tính đảng: - Nguyên tắc tỉnh Đảng được xem như là linh hồn của văn học hiện thực XHCN vì nền văn học này có nhiệm vụ giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho người lao động. Tính đảng cũng có quá trình hình thành của nó, ban đầu yêu cầu đặt ra cần có tính khuynh hướng đối với các nhà văn quá khứ hoặc chưa nằm trong phạm trù văn học vô sản, nhưng chưa đặt ra tính Đảng cho văn học. - Thời đại của Lênin là thời đại bảo táp cách mạng, theo ông nếu văn học thấm nhuần tính Đảng là nền văn học trở thành bộ phận hữu cơ trong sự nghiệp đấu tranh của Đảng, do Đảng lãnh đạo cả về tư tưởng và tổ chức. - Tính Đảng thống nhất cao độ với tính giai cấp và tính nhân dân chứ không đồng nhất vì một nền văn học có tính giai cấp và tính nhân dân thì vị tất đã có tính đảng. Phải là một nền văn học có tính giai cấp vô sản tự giác dồi dào, có tính nhân dân cao độ hướng theo tinh thần thời đại cách mạng xã hội chủ nghĩa mới đạt đến trình độ tính đảng Cộng sản. Thời đại này dòi hỏi tác phẩm mà các nhà văn viết ra phải thể hiện chân thực cuộc sống muôn màu muôn vẻ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và dưới ánh sáng đường lối của Đảng. Từ tư tưởng phải toát ra nhiệt tình chân thực đối với lí tưởng cộng sản chủ nghĩa, vi mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng đất nước. - Về nghệ thuật, tác phẩm có tính Đảng phải mang tính nghệ thuật cao. Như vậy, tính Đảng thể hiện trong cả nội dung và hình thức của tác phẩm, là kết quả của một sự kết hợp hài hòa cao độ giữa lí trí và tình cảm, mang tính tư tưởng, tính chân thực và tính nghệ thuật. - Tác phẩm hiện thực XHCN muốn mang tính Đảng và giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho người lao động phải xây dựng cho được nhân vật trung tâm là người anh hùng mới. Đó là người có tư tưởng đúng, có tình cảm đẹp, có tri thức, có năng lực làm chủ bản thân, làm chủ thiên niên và xã hội. Họ là những người bình thường nhưng không tầm thường. Điều này ta có thể thấy được thể hiện rất rõ qua tác phẩm “Người mẹ” của Mác-xim Goóc-ki, tác phẩm tiêu biểu cho phương pháp sáng tác hiện thực XHCN, trong tác phẩm tác giả đã xây dựng nên hình tượng nhân vật Paven, một người anh hùng mới, tác giả đã miêu tả chặng đường tìm đến ánh sáng cách mạng của anh: Ban đầu, sau khi bố mất anh chỉ là một chàng thanh niên bình thường gần như giống bố. Anh luôn trở về trong những cơn say xỉn và: “…anh loạng choạng lê đến giang chính và đấm tay xuống bàn, quát mẹ như bố trước kia: thức ăn!...”. Anh bắt đầu dua dòi như bao thanh niên khác: “mua một chiếc phong cầm, một áo sơ mi ngực bồ cứng, một chiếc ca-ra-vát sặc sở, gầy cao su…” và bắt đầu dấn thân vào con đường mòn như bao thanh niên khác. Nhưng từ những lời ân cần và dịu dàng của mẹ, dần dần trong anh đã có sự thay đổi: ít đi dự dạ hội, không còn say xỉn, không còn tụ họp với đám bạn bè, đặc biệt là anh đem sách về nhà cố đọc và đọc ngày càng nhiều, đọc xong thì giấu chúng đi, đôi lúc anh chếp từ sách vào một mãnh giấy và cũng giấu mãnh giấy đó đi. Trong Paven đã có sự thay đổi lớn, từ một thanh niên gần như hư hỏng theo những lối mòn của xã hội, lại có sự chuyển biến một cách tích cực, chính điều này đã làm cho người mẹ vừa mừng, vừa lo. Nhưng Paven may mắn hơn bố là thuộc về thế hệ công nhân trẻ, sống trong thời đại mà ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lenin đã bắt đầu soi rọi, anh tìm thấy con đường sáng cho mình và nhận thức rõ những nổi thống khổ của đời sống công nhân là do đâu mà ra và anh cũng hiểu rõ nhiệm vụ của mình là phải dìu dắt và giác ngộ cho những người công nhân và nông dân vẫn còn chưa tìm ra con đường để giải phóng mình, đồng thời anh cũng hiểu rõ những nguy hiểm đang chờ mình: “Con đọc sách cấm mẹ ạ. Họ cấm vì những sách này nói sự thật về đời sống công nhân chúng ta…Những sách này đều in giấu giếm và bí mật, nếu họ tìm thấy ở nhà ta, họ sẽ bỏ tù con…bỏ tù con đã muốn biết sự thật..”, Anh trở nên gần gũi và dịu dàng hơn với mẹ, thẳng thừng tâm sự với mẹ những suy nghĩ của anh về đời sống công nhân với mẹ. Là một người có tư tưởng đúng nhưng muốn hoàn thành được sự nghiệp lớn lao cần phải được tôi luyện trong thử thách, phải có tinh thần thép vượt qua khó khăn: cuộc thử lữa đầu tiên là cuộc đấu tranh mà anh đã đại diện cho quần chúng nhân dân chống lại bọn chủ nhà máy định bốc lột sức lao động của anh em công nhân bằng cách trừ vào lương tháng của mỗi công nhân 1đồng cô-pếch, nhằm đem lại lợi nhuận cho chúng. Tuy cuộc đấu tranh này còn mang tính chất kinh tế, ít được anh em công nhân tham gia và nhanh chóng bị dập tắt nhưng nó đã cho thấy ở Paven tiền thân của một người lãnh đạo cách mạng, táo bạo, dám nghĩ và dám đứng lên để lảnh đạo quần chúng nhân dân khi cần. Cuộc thử lữa thứ hai là cuộc biểu tình tuần hành nhân ngày Một tháng Năm. Khác hẳn với lần đầu, đây là một cuộc đấu tranh chính trị, được đông dảo người tham gia hơn, và những người tham gia đã có một ý thức giác ngộ và tinh thần dũng cảm cao hơn. Trong những cuộc đấu tranh ấy, phẩm chất và bản lĩnh của Paven được bồi dưỡng, anh đã trưởng thành với tư cách là người cán bộ lãnh đạo quần chũng nhân dân. Anh bị bắt nhưng không không vì thế mà phong trào cách mang rơi vào bi kịch mà ngược lại nó như một cuộc mở đầu cho những cuộc đấu tranh cách mạng bảo táp sau này. - Tập thể anh hùng cũng tạo điều kiện cho các cá nhân khác phát triển, để họ góp sức vào sự nghiệp chung. Trong tác phẩm bên cạnh Paven, còn có hàng loạt bạn ciến đấu của anh, những người vô sản và những người trí thức cách mạng. Mỗi người đều có một cá tính rõ nét, có phong thái và thói quen, sở thích và cảm nghĩ của riêng mình. Ở An-đơ-rây, bên cạnh thái độ chính trực, đạo đức trong sạch, tính tình chất phác, còn có những nhược điểm như chưa có lập trường giai cấp vững chăc. Ở Vê-xốp-si-cốp thể hiện khuynh hướng vô chính phủ. Rư-bin là hình tượng người nông dân đã tìm được chân lí trong giai cấp vô sản và thừa nhân giai cấp vô sản là lãnh tụ của mình, đôi lúc còn có thái độ hoài nghi và khuynh hướng tự phát. Ê-gô, Ni-cô-lai, Xa-cen-ca, Lút-mi-na, Na-ta-sa là những người trí thức đại diện cho tầng lớp áp bức bốc lột, nhưng họ đã từ bỏ giai cấp mình, đứng về phía công nhân. - Chính dành sự ưu tiên cho nhân vật chính diện nên trong văn học hiện thực XHCN các nhà văn thường bài tỏ sự khâm phục, cảm kích các nhân vật của mình bằng một giọng văn vừa hùng hồn vừa thiết tha, đầy tự hào và vô cùng yêu mến các nhân vật chính diện của mình. Ngoài ra M. Gorki vẫn dành một dung lượng không nhỏ để phê phán những con người tiêu cực, phản tiến bộ, phản cách mạng: trong hầu hết xuyên suốt trong tác phẩm ta còn thấy xuất hiện