“Trong suốt những năm qua, chứng khoán phái sinh trở thành công cụ hết sức
hữu hiệu để chuyển giao rủi ro từ những người không sẵn sàng chấp nhận cho những
người sẵn sàng chấp nhận nó”, Alan Greenspan - Nguyên Chủ tịch Cục dự trữ liên bang
Mỹ.
“Chứng khoán phái sinh là loại vũ khí tài chính có sức huỷ diệt kinh khủng,
mang theo những nguy hiểm mà giờ đây - năm 2003 - đang âm ỉ huỷ diệt”, Warrant
Buffett.
Công cụ tài chính phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những
công cụ tài chính đã có, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi
nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ
sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất . Công cụ tài
chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro,
trong đó thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn (forward contracts), hợp đồng
tương lai (future contracts). Những công cụ trên còn có thể kết hợp với nhau, với những
khoản vay hoặc những chứng khoán truyền thống để tạo nên các công cụ lai tạo.
25 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1793 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thuyết trình Quản trị sản phẩm tài chính phái sinh và hoạt động của ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
----------
THUYẾT TRÌNH
MÔN QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
Đề tài:
QUẢN TRỊ SẢN PHẨM TÀI CHÍNH PHÁI SINH
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
Nhóm 9: Trần Xuân Tùng
Nguyễn Quang Trung
Nguyễn Ngân Tường
Võ Thị Ngân Vang
Lê Nhị Khánh Vân
Lê Thị Thanh Vân
1
PHẦN NỘI DUNG
1.1. Tổng quan lý thuyết
1.1.1. Sản phẩm tài chính phái sinh
“Trong suốt những năm qua, chứng khoán phái sinh trở thành công cụ hết sức
hữu hiệu để chuyển giao rủi ro từ những người không sẵn sàng chấp nhận cho những
người sẵn sàng chấp nhận nó”, Alan Greenspan - Nguyên Chủ tịch Cục dự trữ liên bang
Mỹ.
“Chứng khoán phái sinh là loại vũ khí tài chính có sức huỷ diệt kinh khủng,
mang theo những nguy hiểm mà giờ đây - năm 2003 - đang âm ỉ huỷ diệt”, Warrant
Buffett.
Công cụ tài chính phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những
công cụ tài chính đã có, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi
nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ
sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất…. Công cụ tài
chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro,
trong đó thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn (forward contracts), hợp đồng
tương lai (future contracts). Những công cụ trên còn có thể kết hợp với nhau, với những
khoản vay hoặc những chứng khoán truyền thống để tạo nên các công cụ lai tạo.
1.1.2. Vai trò thực sự của các sản phẩm phái sinh:
Quản trị rủi ro
Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn làm giảm rủi
ro của mình chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là
những nhà đầu cơ. Vì vậy, thị trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại
rủi ro giữa các nhà đầu tư, không có ai cần phải chấp nhận một mức rủi ro không
phù hợp với bản thân mình. Và cũng vì thế mà họ sẵn sàng cung cấp nhiều vốn
hơn cho thị trường tài chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, phát
2
huy khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn. Bên cạnh đó, thị trường
các sản phẩm phái sinh cũng là một công cụ hiệu quả cho hoạt động đầu cơ. Bởi
người muốn phòng ngừa rủi ro phải tìm được một người khác có nhu cầu đối lập
hoàn toàn với mình, tức là rủi ro của người muốn phòng ngừa rủi ro phải được hấp
thụ bởi các nhà đầu cơ. Tại sao các giao dịch này lại có thể được thực hiện, khi mà
thực tế rõ ràng là khi một bên có lợi thì tất yếu bên còn lại sẽ không thể tránh khỏi
những thiệt hại? Bởi mỗi nhà đầu tư có một “khẩu vị rủi ro” khác nhau, khả năng
chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Tuy nhiên, ai cũng có mong muốn là giữ cho các
khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Và thế là họ gặp
nhau và tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của mình cho đối tác.
Và cũng không giống như người ta thường nghĩ, thị trường phái sinh không
dẫn vốn trong nền kinh tế vào những âm mưu đầu cơ khủng khiếp. Những nhà đầu
cơ không phải là những tay cờ bạc. Chỉ đơn giản là thay vì giao dịch cổ phiếu, họ
giao dịch các sản phẩm phái sinh và chính việc đầu tư vào công cụ tài chính phái
sinh lại tạo điều kiện cho việc phòng ngừa các rủi ro ít tốn kém hơn và hiệu quả
hơn. Bởi cần khẳng định chắc chắn rằng, thị trường phái sinh không hề tạo ra mà
cũng chẳng thể phá huỷ được tài sản, chúng chỉ là những phương tiện chuyển giao
rủi ro trên thị trường, những rủi ro sẵn có cuả thị trường tài sản, chuyển những
khoản rủi ro đó từ những không đủ khả năng chấp nhận nó sang những người sẵn
sàng tiếp nhận nó, chính là những nhà đầu cơ. Không có thêm bất kỳ một rủi ro
nào được sinh ra trên thị trường này. Và lợi ích từ thị trường không chỉ bó hẹp
trong lợi ích của những nhà đầu cơ mà nó lan toả ra toàn xã hội.
Thông tin hiệu quả hình thành giá
Các thị trường kỳ hạn và giao sau là nguồn thông tin quan trọng đối với giá cả.
Đặc biệt, thị trường giao sau được xem là một công cụ chủ yếu để xác định giá
giao ngay của tài sản. Điều này không hề bất bình thường, bởi có rất nhiều hàng
hoá được giao dịch trên thị trường giao sau nhưng thị trường giao ngay của nó rất
rộng lớn và phân tán nên rất khó có thể xác định được giá giao ngay của chúng. Ở
đây, thường giá giao sau của những giao dịch sớm nhất sẽ được xác định là giá
3
giao ngay. Thêm nữa, thị trường giao sau, trên thế giới thường nhộn nhịp hơn nên
các thông tin do nó cung cấp có tính tin cậy cao hơn. Những thông tin được cung
cấp trên thị trường phái sinh dù trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần hình thành giá
giao ngay trong giao sau một cách có hiệu quả mà những người tham gia thị
trường có thể chốt lại trong giới hạn chấp nhận của mình.
Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả.
Thứ nhất, chi phí giao dịch thấp hơn. Điều này làm cho việc chuyển hướng
từ các giao dịch giao ngay sang phái sinh ngày càng dễ dàng và hấp dẫn hơn.
Thứ 2, tính thanh khoản cao hơn hẳn so với thị trường giao ngay. Trước hết
đó là yêu cầu một mức vốn để tham gia thị trường là tương đối thấp. Thêm nữa, tỷ
suất sinh lời và rủi ro có thể được điều chỉnh ở bất cứ mức độ nào như mong
muốn.
Thứ 3, Các giao dịch bán khống được thực hiện dễ dàng hơn. Ngoài ra, các
nhà đầu tư có thể tìm kiếm được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch giá,
chênh lệch lãi suất. Tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều có thể tìm thấy lợi
nhuận.
Thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Vì thế,
các nhà đầu cơ với ý định thao túng thị trường cũng có những khó khăn nhất định.
Chính vì thế, đặt bên cạnh thị trường giao ngay, sự hiệu quả của thị trường phái
sinh giúp nâng cao tính lành mạnh cho thị trường đó.
Những lợi ích ngân hàng (doanh nghiệp) đạt được khi sử dụng công cụ phái
sinh:
Công cụ phái sinh đã được biết đến như là một loại hình bảo hiểm rủi ro tài
chính khi thực hiện các hợp đồng kinh tế mà bản chất là phân tán rủi ro tiềm ẩn và
đương nhiên, lợi nhuận của các giao dịch cùng được chia sẻ cho các bên. Công cụ
phái sinh gồm các công cụ giao dịch kỳ hạn (Forward), hoán đổi (Swaps), quyền
chọn (Options) và giao sau (Futures).
Trên thực tế, mục đích của ngân hàng thương mại khi tham gia công cụ
phái sinh là để bảo hiểm rủi ro giao dịch tài chính cho cả ngân hàng và khách
4
hàng. Trong quá trình hoạt động, nếu có sinh lời thì bản chất vẫn là phòng ngừa
rủi ro để tối đa hóa lợi nhuận chứ không hẳn là kiếm lời.
Công cụ phái sinh – công cụ bảo hiểm cho nhà đầu tư:
Một điều gây khó khăn cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào thị trường chứng
khoán là không có chứng khoán để bán khi thị trường lên cao và không có tiền để
mua khi thị trường xuống dốc. Thị trường chứng khoán phái sinh ra đời do đó nhà
đầu tư sẽ có thêm công cụ bảo hiểm rủi ro và thêm nhiều nghiệp vụ trong giao
dịch để nhà đầu tư lựa chọn nhằm giảm thiểu rủi ro, đa dạng hoá các phương thức
đầu tư cho mình và tối đa hoá lợi nhuận. Một trong các công cụ tài chính giúp nhà
đầu tư đó là chứng khoán phái sinh. Một công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro,
đầu tư giá xuống khi thị trường tuột dốc. Điều này tạo cho nhà đầu tư một tâm lý
có được cảm giác an toàn và sự an tâm hơn khi đầu tư vào thị trường chứng khoán.
Lúc này có được sự chủ động và yên tâm nên các nhà đầu tư sẽ tham gia nhiều vào
thị trường chứng khoán khi họ còn các kênh đầu tư hấp dẫn khác như vàng, xăng
dầu, tiền tệ…Nhà đầu tư bớt đi tâm lý sợ hãi khi thị trường tuột dốc và luôn phải
đặt ra câu hỏi “Đâu là đáy của thị trường?” vì lúc này họ có thể đầu tư ở mọi trạng
thái của thị trường. Khi thị trường càng đi xuống thì nhà đầu tư nắm giữ các chứng
khoán phái sinh càng có lợi. Thêm vào đó, khi có sự đầu tư theo hai hướng ngược
nhau của các nhà đầu tư “mua lên” hoặc “bán xuống” sẽ tạo lực cản để thị trường
không giảm quá sâu hoặc tăng quá nóng.
1.2. Phân loại các sản phẩm phái sinh:
Trong các thị trường tài sản, việc mua bán hòi hỏi hàng hoá hoặc chứng khoán
phải được giao nhận hoặc là ngay lập tức hoặc là chỉ ít lâu sau đó. Việc thanh toán cũng
thường được thực hiện tức thời mặc dù thỉnh thoảng cũng có trường hợp sử dụng một số
thoả thuận tín dụng. Do đặc điểm như vậy nên chúng ta thường gọi là thị trường tiền mặt
hoặc là thị trường giao ngay (spot market). Doanh số được thực hiện, khoản thanh toán
được hoàn trả và hàng hoá, chứng khoán được giao nhận. Trong tình huống khác, hàng
hoá hay chứng khoán vẫn được giao nhận vào một ngày sau đó, nhưng có các thoả thuận
5
giúp cho ngưòi bán hoặc người mua được chọn là có thực hiện bán hay không các loại
thoả thuận này, và nghiệp vụ này được thực hiện trong thị trường phái sinh.
Thị trường phái sinh là thị trường dành cho các công cụ tài chính phái sinh, những
công cụ mang tính hợp đồng, mà thành quả của chúng được xác định trên một hoặc một
số công cụ tài sản khác. Các loại công cụ phái sinh khác nhau bao gồm: Hợp đồng kỳ
hạn, Hợp đồng giao sau, quyền chọn, hoán đổi và chứng khoán lai tạp. Tuy nhiên, bài
nghiên cúu của nhóm chỉ nghiên cứu 3 loại công cụ phái sinh chủ yếu: Hợp đồng tương
lai, Hợp đồng quyền chọn lại suất và Hợp đồng hoán đổi lãi suất trong khía cạnh quản trị
rủi ro lãi suất trong ngân hàng.
1.2.1. Hợp đồng tương lai:
1.2.1.1. Khái niệm:
Hợp đồng giao sau hay là hợp đồng tương lai (future contract) trên TTCK là một
thoả thuận giữa hai bên để mua hay bán một số lượng tài sản (tài chính) cơ sở đã được
chuẩn hóa nhất định tại một thời hạn xác định với mức giá xác định tại thời điểm thoả
thuận giao dịch. HĐGS là hợp đồng kỳ hạn được chuẩn hóa về tài sản cơ sở mua bán, số
lượng các đơn vị tài sản cơ sở mua bán, thể thức thanh toán và kỳ hạn giao dịch.
1.2.1.2. Đặc điểm:
Hợp đồng tương lai, nhờ đặc tính linh hoạt của nó, đã khắc phục được những
nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn, và thường được xem là một cách thức tốt hơn để rào
chắn rủi ro trong kinh doanh.
Những điểm khác biệt căn bản của hợp đồng tương lai so với hợp đồng kỳ hạn là:
Niêm yết trên sở giao dịch: Một giao dịch hợp đồng tương lai nói chung được xử
lý trên một Sở giao dịch. Điểm này cho phép giá cả được hình thành hợp lý hơn, do các
bên mua bán được cung cấp thông tin đầy đủ và công khai.
Xoá bỏ rủi ro tín dụng: Trong các giao dịch hợp đồng tương lai được niêm yết
trên sở giao dịch, cả hai bên bán và mua đều không bao giờ biết về đối tác giao dịch của
mình. Công ty thanh toán bù trừ sẽ phục vụ như một trung gian trong tất cả các giao dịch.
Người bán bán cho công ty thanh toán bù trừ, và người mua cũng mua qua công ty thanh
6
toán bù trừ. Nếu một trong hai bên không thực hiện được hợp đồng thì vẫn không ảnh
hưởng gì đến bên kia.
Tiêu chuẩn hoá: Các hợp đồng kỳ hạn có thể được thảo ra với một hàng hoá bất
kỳ, khối lượng, chất lượng, thời gian giao hàng bất kỳ, theo thoả thuận chung giữa hai
bên bán, mua. Tuy nhiên, các hợp đồng tương lai niêm yết trên sở giao dịch đòi hỏi việc
giao nhận một khối lượng cụ thể của một hàng hoá cụ thể đáp ứng các tiêu chuẩn chất
lượng tối thiểu, theo một thời hạn được ấn định trước.
Điều chỉnh việc đánh giá theo mức giá thị trường: Trong các hợp đồng kỳ hạn,
các khoản lỗ, lãi chỉ được trả khi hợp đồng đến hạn. Với một hợp đồng tương lai, bất kỳ
món lợi nào cũng được giao nhận hàng ngày. Cụ thể là nếu giá của hàng hoá cơ sở biến
động khác với giá đã thoả thuận (giá thực hiện hợp đồng) thì bên bị thiệt hại do sự thay
đổi giá này phải trả tiền cho bên được lợi từ sự thay đổi giá đó. Trên thực tế, vì không
bên nào biết về đối tác của mình trong giao dịch, nên những người thua đều trả tiền cho
công ty thanh toán bù trừ, và công ty này sẽ trả tiền cho những người thắng.
1.2.2. Hợp đồng quyền chọn lãi suất:
1.2.2.1. Khái niệm:
Hợp đồng quyền chọn là một hợp đồng giữa hai bên – người mua và người bán –
trong đó cho người mua quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài
sản nào đó (tài sản cơ sở) vào một ngày trong giao sau với giá đã đồng ý vào ngày hôm
nay. Thời điểm xác định trong giao sau gọi là ngày đáo hạn. Thời gian từ khi ký HĐQC
đến ngày thanh toán gọi là kỳ hạn của quyền chọn. Mức giá áp dụng trong ngày đáo hạn
gọi là giá thực hiện.
1.2.2.2. Phân loại quyền chọn.
Phân loại theo vị thế.
Quyền chọn mua ( Call Option): Là một quyền chọn để mua một tài sản cơ sở ở
một mức giá cố định – giá thực hiện, trong một khoản thời gian nhất định hay một thời
điểm đã xác định trong giao sau.
7
Quyền chọn bán (Put Option): Là một quyền chọn để bán một tài sản cơ sở ở một
mức giá cố định, trong một khoản thời gian nhất định hay một thời điểm đã xác định
trong giao sau.
Phân loại theo thời gian thực hiện quyền chọn.
Quyền chọn kiểu Mỹ là quyền lựa chọn mà người mua quyền chọn có quyền thực
hiện quyền lựa chọn tại bất kỳ thời điểm nào trong thời gian thỏa thuận của hợp đồng.
Mục đích chính của quyền chọn kiểu Mỹ là nhằm đầu cơ.
Quyền lựa chọn kiểu Châu Âu là quyền lựa chọn mà người mua quyền chọn chỉ có
thể thực hiện quyền lựa chọn tại một thời điểm xác định đã được thỏa thuận trong hợp
đồng. Mục đích chính của quyền chọn kiểu Châu Âu là phòng ngừa rủi ro.
Phân loại theo tài sản cơ sở: quyền chọn chứng khoán, quyền chọn chỉ số chứng
khoán, quyền chọn lãi suất,….
1.2.2.3. Các chiến lược quyền chọn
Trong một thị trường thuần nhất không có quyền chọn thì các chiến lược hiện hữu
sẽ rất hạn chế. Chẳng hạn, khi thị trường kỳ vọng lãi suất giảm, giá tài sản tài chính sẽ
tăng lên thì người ta sẽ mua tài sản tài chính.
Còn nếu nó được kỳ vọng giảm xuống thì người ta sẽ bán tài sản tài chính. Nhưng
trong một thị trường có quyền chọn thì nó sẽ làm cho các chiến lược trở nên phong phú
hơn rất nhiều.
Chẳng hạn như, bằng các chiến lược kết hợp quyền chọn có thể tạo nên nhiều sản
phẩm, làm đa dạng hoá sản phẩm đầu tư, dẫn đến tăng tính lựa chọn hàng hoá cho thị
trường. Cụ thể, ta có thể xem qua một vài chiến lược cơ bản của quyền chọn như sau:
Bán quyền chọn bán
Người bán quyền chọn bán có trách nhiệm mua tài sản tài chính của người mua
quyền chọn bán ở mức giá thực hiện. Người bán quyền chọn bán có lợi nhuận nếu giá cổ
phiếu tăng và vì vậy mà quyền chọn bán không được thực hiện trong trường hợp đó
người bán giữ hoàn toàn khoản phí.
8
Ngược lại nếu giá cổ phiếu giảm đến mức quyền chọn bán được thực hiện, người
bán quyền chọn bán bị buộc phải mua tài sản tài chính với giá cao hơn giá trị của thị
trường.
Mua quyền chọn bán
Mua quyền chọn bán là một chiến lược dành cho thị trường giá xuống. Mức lỗ
tiềm năng được giới hạn trong phí quyền chọn được chi trả, mức lợi nhuận tiềm năng lớn.
Nếu giá tài sản tài chính khi đáo hạn thấp hơn giá thực hiện, quyền chọn bán là
cao giá ITM và sẽ được thực hiện.
Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn lớn hơn hoặc bằng giá thực hiện, quyền chọn bán là
kiệt giá OTM hoặc ngang giá ATM.
Mua quyền chọn mua
Mua quyền chọn mua là một chiến lược tăng giá có mức lỗ có giới hạn (phí quyền
chọn) và có mức lợi nhuận tiềm năng không giới hạn.
Bán quyền chọn mua
Bán quyền chọn mua là một chiến lược kinh doanh giá xuống và mang lại lợi
nhuận có giới hạn chính là phí quyền chọn nhưng mức lỗ thì vô hạn.
Bán quyền chọn mua với giá thực hiện thấp hơn có mức lợi nhuận tối đa cáo hơn
nhưng mức lỗ do giá tăng cũng cao hơn.
Với giá cổ phiếu cho trước, vị thế bán quyền chọn mua được duy trì càng lâu, giá
trị thời gian càng mất dần và lợi nhuận càng lớn.
9
Hình a: giá lên,người mua quyền chọnmua lời tối đa bằng (ST– c – X), người bán
quyền chọn mua lỗ tối đa bằng (X – c – ST).
Hình b: giá xuống,người bán quyền chọn mua lời tối đa bằng c, người mua quyền chọn
mua lỗ tối đa bằng c.
Hình c: giá xuống, người mua quyền chọn bán lời tối đa bằng (X – p – ST), người bán
quyền chọn bán lỗ tối đa bằng (ST – p – X).
Hình d: giá lên, người bán quyền chọn bán lời tối đa bằng p, người mua quyền chọn
bán lỗ tối đa bằng p.
Chú thích:
1. X : giá thực hiện quyền chọn.
2. ST : giá tài sản cơ sở vào thời điểm đáo hạn.
3. c : phí quyền chọn mua.
4. p : phí quyền chọn bán.
10
1.2.3. Hợp đồng hoán đổi lãi suất:
Trong lĩnh vực tài chính, hợp đồng hoán đổi, hay còn gọi là hợp đồng SWAP, là
một công cụ tài chínhphái sinh (derivative) trong đó hai bên đối tác trao đổi một dòng
tiền (cash flow) này lấy một dòng tiền khác của bên kia. Những dòng tiền này gọi là các
nhánh của swap (legs), các dòng tiền được tính toán dựa trên một con số ước tính nhất
định.
Các hợp đồng hoán đổi thường được dùng để phòng ngừa các loại rủi ro tài
chính (như rủi ro về lãi suất thay đổi, rủi ro về tỉ giá, rủi ro về giá cổ phiếu), để hưởng các
ưu đãi dành cho các công ty trong nước, hoặc để nhằm mục đích đầu cơ.
Ví dụ: A có một khoản tiền gửi $100,000 với lãi suất cố định 5%/ năm. B cũng có
một khoản đầu tư $100,000 với lãi suất biến động, bình quân cũng là 5%/năm. A và B kí
một hợp đồng SWAP theo đó, B sẽ trả cho A số lợi tức từ khoản đầu tư của B, còn A trả
cho B lợi tức 5,000 usd/ năm. Bằng cách này, B vẫn giữ được khoản đầu tư của mình,
trong khi có thu nhập ổn định, còn A lại có cơ hội hưởng lợi tức từ khoản đầu tư kia cho
dù không thực sự sở hữu nó.
Các hợp đồng Swap thường được giao dịch bên ngoài các thị trường giao dịch tập
trung, hay nói cách khác nó là một loại công cụ tài chính phái sinh OTC (Over the
counter). Hợp đồng Swap không thể được mua bán trao đổi như là các loại chứng khoán
hay hợp đồng tương lai, mà chúng thực sự là những hợp đồng cá biệt giữa hai bên xác
định. Do đó, cách duy nhất để thoát ra khỏi hợp đồng này là bằng thoả thuận song
phương với phía đối tác để huỷ hợp đồng, hoặc bằng cách chuyển nhượng nó cho bên thứ
ba với điều kiện có sự đồng ý của phía đối tác.
Hiện nay có rất nhiều công cụ phái sinh trên thị trường tài chính ngân hàng mà
hoán đổi lãi suất là một trong những sản phẩm khá mới mẻ đối với các ngân hàng trong
nước. Ở các ngân hàng nước ngoài thì hoán đổi lãi suất được họ sử dụng nhuần nhuyễn
như là một công cụ để phòng chống rủi ro, vừa đa dạng dịch vụ cho khách hàng, vừa để
kiếm lời. Những ngân hàng nước ngoài hiện nay có số lượng các giao dịch hoán đổi lãi
suất nhiều nhất là HSBC, Standard Chatered Bank, Citi Bank...
11
Từ tháng 01/2003, khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho phép thực hiện nghiệp
vụ hoán đổi lãi suất trên thị trường tiền tệ liện ngân hàng tại Việt Nam, đã có một số ngân
hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất trong phạm vi đồng USD từ ngày
1/3/2005 tới 2/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền USD và
VND (hoán đổi lãi suất chéo) đã được thực hiện, từ trước khi có quy định chính thức của
ngân hàng nhà nước.
Cho tới lần đầu tiên, khi được NHNN cho phép, HSBC đã cung cấp gói Swaps
tiền Đồng cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15 triệu USD trên tại trường
Việt Nam. Theo đó, HSBC sẽ đưa VND và nhận USD từ khách hàng, tới tháng 12/2007,
HSBC sẽ đưa USD và nhận lại VND từ khách hàng. Với giao dịch này, khách đã đạt
được mức lãi suất cạnh tranh nhất trên thị trường nội địa cho việc vay vốn tiền Đồng kỳ
hạn 3 năm mà không chịu bất cứ một rủi ro nào về tỷ giá USD/VND. Sự kiện này lúc đó
được xem như là một bước đột phá mới trên thị trường tiền tệ Việt Nam đang còn sơ khai
và người chỉ đạo thực hiện nghiệp vụ này được giới báo chí tung hô là "người buôn tiền
số 1 Việt Nam".
Về nguyên tắc, cơ chế hoạt động của nghiệp vụ mới này khá đơn giản. Có thể xét
ví dụ cụ thể: một doanh nghiệp vay vốn bằng ngoại tệ của một ngân hàng để đầu tư cho
dự án mới của mình, thời hạn 5 năm, trả lãi từng năm với lãi suất được quy định là
SIBOR (lãi suất liên ngân hàng Singapore) +1,5%. Đây là mức lãi suất dao động phụ
thuộc vào biến động thị trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với mức lãi suất vào t