Đối với bất kỳ hoạt động đầu tư nào, vấn đề rủi ro luôn được đề cập đến khi đánh giá tính
hiệu quả của hoạt động đầu tư đó. Ngày nay, trong quá trình toàn cầu hóa, sự chu chuy ển
vốn giữa các quốc gia càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Vấn đề xem xét đánh giá mức độ rủi ro
của từng quốc gia được đặt ra cũng trở nên phổ biến như việc đánh giá rủi ro của bất kỳ hoạt
động đầu tư nào đó.
Rủi ro quốc gia đề cập đến rủi ro mà một quốc gia sẽ không thể thực hiện, giữ đúng được
lời hứa đối với các cam kết tài chính của mình. Khi mà một quốc gia không hoàn thành được
nhiệm vụ đề ra thì nó sẽ gây hại đến hoạt động của tất cả các công cụ tài chính khác trong
quốc gia đó cũng như đến những quốc gia mà nó có quan hệ. Rủi ro quốc gia áp dụng cho cổ
phiếu, trái phiếu, quỹ tương hỗ, quy ền chọn và hợp đồng tương lai mà được phát hành trong
một quốc gia cụ thể. Loại rủi ro này hầu hết thường được thấy tại các thị trường mới nổi hay
các quốc gia bị thâm hụt cán cân thương mại nghiêm trọng. Rủi ro quốc gia còn ám chỉ đến
khả năng có thể xảy ra khi mà một chính phủ hay người đi vay từ một quốc gia cụ thể có thể
không có khả năng hay không sẵn sàng để thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nợ của họ đối với
một hay nhiều người cho vay nước ngoài hay nhà đầu tư nước ngoài.
Rủi ro quốc gia là rủi ro mà các điều kiện và các sự kiện kinh tế, xã hội, chính trị ở một
quốc gia sẽ ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của một quá trình đầu tư. Rủi ro quốc gia cũng bao
gồm các khả năng quốc hữu hóa hay sung công tài sản, sự từ chối trả nợ nước ngoài của
chính phủ, việc kiểm soát ngoại hối, sự đánh giá thấp tiền tệ hay mất giá, phá giá tiền tệ.
Thuật ngữ rủi ro quốc gia thường được sử dụng gắn với đầu tư xuyên biên giới và được
phân tích từ viễn cảnh của nhà đầu tư nước ngoài. Rủi ro quốc gia là rủi ro đơn nhất mà nhà
đầu tư nước ngoài phải đối mặt khi đầu tư vào một quốc gia khi so sánh đầu tư vào quốc gia
khác. Rủi ro quốc gia là một phần đơn lẻ của rủi ro đầu tư, được gây ra trong một quốc gia.
Việc hiểu về thuật ngữ rủi ro quốc gia đến mức độ nào là phụ thuộc vào dạng đầu tư. Có 3
dạng đầu tư nước ngoài phổ biến: cho vay, đầu tư vốn cổ phần, và đầu tư trực tiếp FDI. Cho
vay bao gồm cho vay trực tiếp, hoặc mua trái phiếu của chính phủ hay trái phiếu các công ty
tư nhân ở quốc gia đó. Vốn cổ phần bao gồm đầu tư vào những công ty được niêm yết trên
thị trường chứng khoán hay không được niêm yết trên thị trường chứng khoán ở quốc gia đó.
2
Đầu tư trực tiếp bao gồm việc đầu tư vào xí nghiệp và tài nguyên như hầm mỏ hay giếng dầu
và các tài sản thực khác. Liên quan đến việc cho vay, người đi vay có thể phân loại thành hai
nhóm: chính phủ vay và vay có bảo đảm của chính phủ, và vay từ các công ty tư nhân không
có bảo đảm. Khi thuật ngữ rủi ro quốc gia được sử dụng trong cho vay xuyên biên giới và
người đi vay là chính ph ủ thì rủi ro tín dụng được biết đến như là rủi ro thể chế (sovereign
risk) hay rủi ro tín dụng quốc qia. Rủi ro tín dụng là rủi ro mà người đi vay sẽ không hoàn
thành đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng vay mượn dẫn đến những mất mát cho người
cung cấp tín dụng hay người cho vay. Rủi ro quốc gia đối với nhà đầu tư bao gồm cả khả
năng “tăng giá” tiềm tàng và rủi ro “giảm giá” và có thể đo lường bằng phương sai của thu
nhập. Trong hầu hết các trường hợp khả năng các sự kiện tiêu cực sẽ làm tăng giá trị đầu tư
là rất thấp. Do đó rủi ro quốc gia có thể xem như là những tác động mang tính quốc gia đến
thu nhập từ đầu tư.
22 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2117 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thuyết trình Rủi ro quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
-----
NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
RỦI RO QUỐC GIA
GV hướng dẫn : PGS.TS Trương Thị Hồng
Lớp : Ngân hàng Đêm 1
Khóa : 22
TP HỒ CHÍ MINH, 2014
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ RỦI RO QUỐC GIA .................................................................................... 1
1.1 Khái quát về rủi ro quốc gia ........................................................................................................ 1
1.2 Phân loại về rủi ro quốc gia: ........................................................................................................ 2
1.3 Các nhân tố tác động đến rủi ro quốc gia .................................................................................... 7
1.3.1 Các nhân tố kinh tế vĩ mô ..................................................................................................... 7
1.3.2 Môi trường xã hội, chính trị và pháp luật............................................................................ 8
1.4 Những nguyên nhân chính gây ra rủi ro quốc gia ....................................................................... 9
1.5 Vai trò của việc phân tích rủi ro quốc gia ................................................................................... 9
1.6 Tác động của việc đánh giá rủi ro quốc gia ............................................................................... 10
CHƯƠNG 2: CÁC TỔ CHỨC ĐÁNH GIÁ RỦI RO QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI ............................ 11
2.1. Các tổ chức đánh giá rủi ro quốc gia trên thế giới .................................................................... 11
2.2. Những hạn chế............................................................................................................................ 16
CHƯƠNG 3: XẾP HẠNG QUỐC GIA VIỆT NAM CỦA CÁC TỔ CHỨC XẾP HẠNG QUỐC TẾ ... 18
2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ RỦI RO QUỐC GIA
1.1 Khái quát về rủi ro quốc gia
Đối với bất kỳ hoạt động đầu tư nào, vấn đề rủi ro luôn được đề cập đến khi đánh giá tính
hiệu quả của hoạt động đầu tư đó. Ngày nay, trong quá trình toàn cầu hóa, sự chu chuyển
vốn giữa các quốc gia càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Vấn đề xem xét đánh giá mức độ rủi ro
của từng quốc gia được đặt ra cũng trở nên phổ biến như việc đánh giá rủi ro của bất kỳ hoạt
động đầu tư nào đó.
Rủi ro quốc gia đề cập đến rủi ro mà một quốc gia sẽ không thể thực hiện, giữ đúng được
lời hứa đối với các cam kết tài chính của mình. Khi mà một quốc gia không hoàn thành được
nhiệm vụ đề ra thì nó sẽ gây hại đến hoạt động của tất cả các công cụ tài chính khác trong
quốc gia đó cũng như đến những quốc gia mà nó có quan hệ. Rủi ro quốc gia áp dụng cho cổ
phiếu, trái phiếu, quỹ tương hỗ, quyền chọn và hợp đồng tương lai mà được phát hành trong
một quốc gia cụ thể. Loại rủi ro này hầu hết thường được thấy tại các thị trường mới nổi hay
các quốc gia bị thâm hụt cán cân thương mại nghiêm trọng. Rủi ro quốc gia còn ám chỉ đến
khả năng có thể xảy ra khi mà một chính phủ hay người đi vay từ một quốc gia cụ thể có thể
không có khả năng hay không sẵn sàng để thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nợ của họ đối với
một hay nhiều người cho vay nước ngoài hay nhà đầu tư nước ngoài.
Rủi ro quốc gia là rủi ro mà các điều kiện và các sự kiện kinh tế, xã hội, chính trị ở một
quốc gia sẽ ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của một quá trình đầu tư. Rủi ro quốc gia cũng bao
gồm các khả năng quốc hữu hóa hay sung công tài sản, sự từ chối trả nợ nước ngoài của
chính phủ, việc kiểm soát ngoại hối, sự đánh giá thấp tiền tệ hay mất giá, phá giá tiền tệ.
Thuật ngữ rủi ro quốc gia thường được sử dụng gắn với đầu tư xuyên biên giới và được
phân tích từ viễn cảnh của nhà đầu tư nước ngoài. Rủi ro quốc gia là rủi ro đơn nhất mà nhà
đầu tư nước ngoài phải đối mặt khi đầu tư vào một quốc gia khi so sánh đầu tư vào quốc gia
khác. Rủi ro quốc gia là một phần đơn lẻ của rủi ro đầu tư, được gây ra trong một quốc gia.
Việc hiểu về thuật ngữ rủi ro quốc gia đến mức độ nào là phụ thuộc vào dạng đầu tư. Có 3
dạng đầu tư nước ngoài phổ biến: cho vay, đầu tư vốn cổ phần, và đầu tư trực tiếp FDI. Cho
vay bao gồm cho vay trực tiếp, hoặc mua trái phiếu của chính phủ hay trái phiếu các công ty
tư nhân ở quốc gia đó. Vốn cổ phần bao gồm đầu tư vào những công ty được niêm yết trên
thị trường chứng khoán hay không được niêm yết trên thị trường chứng khoán ở quốc gia đó.
1
Đầu tư trực tiếp bao gồm việc đầu tư vào xí nghiệp và tài nguyên như hầm mỏ hay giếng dầu
và các tài sản thực khác. Liên quan đến việc cho vay, người đi vay có thể phân loại thành hai
nhóm: chính phủ vay và vay có bảo đảm của chính phủ, và vay từ các công ty tư nhân không
có bảo đảm. Khi thuật ngữ rủi ro quốc gia được sử dụng trong cho vay xuyên biên giới và
người đi vay là chính phủ thì rủi ro tín dụng được biết đến như là rủi ro thể chế (sovereign
risk) hay rủi ro tín dụng quốc qia. Rủi ro tín dụng là rủi ro mà người đi vay sẽ không hoàn
thành đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng vay mượn dẫn đến những mất mát cho người
cung cấp tín dụng hay người cho vay. Rủi ro quốc gia đối với nhà đầu tư bao gồm cả khả
năng “tăng giá” tiềm tàng và rủi ro “giảm giá” và có thể đo lường bằng phương sai của thu
nhập. Trong hầu hết các trường hợp khả năng các sự kiện tiêu cực sẽ làm tăng giá trị đầu tư
là rất thấp. Do đó rủi ro quốc gia có thể xem như là những tác động mang tính quốc gia đến
thu nhập từ đầu tư.
1.2 Phân loại về rủi ro quốc gia:
Có nhiều quan niệm trong việc phân loại rủi ro quốc gia, trong đó có những quan
niệm cơ bản như sau.
Đứng trên góc độ đầu tư : Một phân loại khả dĩ đối với rủi ro quốc gia là rủi ro
kinh tế, rủi ro thương mại và rủi ro chính trị.
- Rủi ro kinh tế là rủi ro liên quan tới việc phát triển kinh tế vĩ mô của một quốc gia,
như sự phát triển lãi suất và tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng tới khả năng lợi nhuận
của đầu tư.
- Rủi ro thương mại là rủi ro liên quan đến một đầu tư xác định, chẳng hạn như rủi ro
liên quan đến việc hoàn thành đầy đủ các hợp đồng với các công ty tư nhân hay đối
tác địa phương.
- Rủi ro chính trị: Đối với nhiều quốc gia là loại quan trọng nhất. Một quốc gia là
một thực thể chính trị với những luật lệ và quy định áp dụng đối với đầu tư. Thêm
vào đó những điều luật bảo vệ quyền đối với tài sản cá nhân, sự sẵn sàng và khả
năng của một chính phủ thay đổi những luật lệ và quy định này sẽ tạo thành một
nguồn rủi ro đối với đầu tư. Rủi ro chính trị cũng có thể gây ra bởi hành vi của nhà
nước hay các công ty sở hữu nhà nước trên thị trường, hay trong các trường hợp
nguy kịch như chiến tranh và bạo loạn.
2
Một quan điểm thứ hai trong phân tích rủi ro quốc gia là phân loại rủi ro quốc
gia thành rủi ro chính trị, rủi ro kinh tế, rủi ro tài chính.
Cách phân loại này là cách phân loại phổ biến nhất và thường được các tổ chức xếp
hạng sử dụng.
- Rủi ro chính trị thể hiện tính ổn định về mặt chính trị của một quốc gia mà có thể
ảnh hưởng đến khả năng và thiện chí trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của
mình. Rủi ro chính trị tăng lên từ các sự kiện như chiến tranh, xung đột nội bộ hay
xung đột bên ngoài, khủng bố… dẫn đến những thay đổi trong chính phủ. Rủi ro
chính trị còn được thể hiện thông qua những vấn đề bất ổn chính trị của quốc gia
láng giềng. Chẳng hạn, nếu quốc gia đi vay nằm bên cạnh một quốc gia đang có
chiến tranh thì mức độ rủi ro của quốc gia này sẽ cao hơn bởi vì mặc dù quốc gia đi
vay không liên quan trực tiếp đến cuộc xung đột nhưng nguy cơ ảnh hưởng từ cuộc
xung đột này là tồn tại.
- Rủi ro kinh tế thể hiện sức mạnh hay sự yếu kém hiện tại của nền kinh tế của một
quốc gia.
- Rủi ro tài chính thể hiện khả năng của một quốc gia để đáp ứng cho việc thanh toán
các khoản tín dụng chính thức, thương mại… nước ngoài.
Rủi ro kinh tế và rủi ro tài chính phản ánh năng lực chi trả của một quốc gia đối với
các khoản nợ của mình, trong khi đó rủi ro chính trị lại phản ánh thiện chí trả nợ đó.
Quan điểm thứ ba đối với việc phân loại rủi ro quốc gia hướng cụ thể vào
từng loại rủi ro như sau.
Các nhà phân tích có khuynh hướng phân loại rủi ro quốc gia vào 6 loại chính được
chỉ ra dưới đây. Nhiều loại trong số các rủi ro này chồng chéo lẫn nhau, dựa trên mối
quan hệ quốc tế của nền kinh tế trong nước với hệ thống chính trị và cộng đồng quốc
tế. Mặc dù nhiều nhà phân tích rủi ro có thể không đồng ý hoàn toàn với cách phân
loại này nhưng các khái niệm này có khuynh hướng thể hiện rủi ro quốc gia. Sáu loại
rủi ro này là: rủi ro kinh tế, rủi ro chuyển giao, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro vị trí hay
vùng lân cận, rủi ro thể chế, rủi ro chính trị.
- Rủi ro kinh tế là một sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế hay tỷ lệ tăng trưởng
3
mà tạo ra một thay đổi chủ yếu trong thu nhập kỳ vọng của một đầu tư. Rủi ro này
phát sinh từ khả năng tiềm tàng của những thay đổi bất lợi trong mục tiêu của các
chính sách kinh tế chủ yếu (chính sách tài khoá, chính sách quốc tế, chính sách
phân bổ của cải hay chính sách sản xuất) hay phát sinh từ một thay đổi đáng kể
trong lợi thế so sánh của quốc gia (như cạn kiệt tài nguyên, suy thoái công nghiệp,
dịch chuyển dân cư). Rủi ro kinh tế thường chồng chéo với rủi ro chính trị trong
một vài hệ thống đo lường vì cả hai có quan hệ đến chính sách của một quốc gia.
Sự đo lường rủi ro kinh tế bao gồm các đo lường truyền thống về chính sách tài
khoá và chính sách tiền tệ, như quy mô và thành phần của chi tiêu chính phủ, chính
sách thuế, tình trạng nợ của chính phủ, và chính sách tiền tệ và tính vững chắc về
tài chính. Đối với đầu tư dài hạn, sự đo lường nhắm vào các nhân tố tăng trưởng dài
hạn, mức độ “mở cửa” của nền kinh tế, và các nhân tố thể chế mà có thể tác động
đến sản xuất của cải.
- Rủi ro chuyển giao là rủi ro phát sinh từ một quyết định bởi chính phủ một quốc gia
về việc hạn chế sự di chuyển của dòng vốn nước ngoài. Những hạn chế này có thể
là: gây khó khăn cho việc chuyển lợi nhuận, cổ tức, hay vốn về nước. Rủi ro
chuyển giao cũng có thể hiểu là khả năng mà một tài sản không thể chuyển đổi
sang một đồng tiền thanh toán (đồng tiền có khả năng chuyển đổi) bởi vì quốc gia
vay nợ thiếu ngoại hối cần thiết hay kiềm chế khả năng này. Kiểm soát ngoại hối là
một ví dụ của rủi ro chuyển giao. Định lượng rủi ro này khá khó khăn bởi vì quyết
định hạn chế vốn có thể là một phản ứng hoàn toàn mang tính chính trị nhằm đối
phó những khó khăn nhất định trong những thời kỳ kinh tế nào đó. Ví dụ như,
quyết định của Malaysia thực hiện kiểm soát vốn và chế độ tỷ giá hối đoái cố định
trong khoảng giữa cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á là một giải pháp mang tính
chính trị đối với vấn đề tỷ giá. Đo lường rủi ro chuyển giao tiêu biểu thường bao
gồm các tỷ lệ:
Tỷ lệ các khoản thanh toán nợ dịch vụ trên xuất khẩu;
Tỷ lệ các khoản thanh toán nợ dịch vụ trên xuất khẩu cộng đầu tư trực tiếp nước
ngoài thuần;
Tỷ lệ nợ nước ngoài so với thu nhập;
4
Tỷ lệ dự trữ ngoại tệ so với nhập khẩu.
Việc đo lường thường gắn liền với tình trạng của tài khoản vãng lai. Khi các đo lường
định lượng này có xu hướng xấu, điều này sẽ bộc lộ sự mất cân bằng tiềm tàng của
cán cân tài khoản vãng lai, có thể đưa một quốc gia đến việc hạn chế vốn. Ví dụ như,
một sự thâm hụt đang lớn dần lên trong tài khoản vãng lai ngụ ý một nhu cầu lớn hơn
mãi mãi đối với ngoại tệ để bù đắp cho sự thâm hụt đó. Rủi ro này sẽ tăng thêm nếu
không có sự thay đổi nào trong việc bù đắp sự thâm hụt này bằng tài khoản vốn.
- Rủi ro tỷ giá là một sự biến động bất lợi không mong đợi trong tỷ giá hối đoái. Rủi
ro tỷ giá bao gồm một sự thay đổi không mong đợi trong chế độ tỷ giá như một
thay đổi từ tỷ giá cố định sang thả nổi. Lý thuyết kinh tế chỉ ra việc phân tích rủi ro
tỷ giá phải trải qua thời kỳ dài (hơn 1 đến 2 năm). Các áp lực ngắn hạn, bị chi phối
bởi các các nguyên tắc kinh tế cơ bản, có khuynh hướng bị cuốn theo bởi các động
lực mua bán tiền tệ được định giá một cách tốt nhất bởi các nhà kinh doanh tiền tệ.
Trong ngắn hạn, rủi ro đối với nhiều đồng tiền có thể được loại bỏ ở một chi phí có
thể chấp nhận được thông qua các cơ chế phòng ngừa khác nhau và các hợp đồng
tương lai. Phòng ngừa tiền tệ trở nên phi thực tế đối với tuổi thọ của máy móc thiết
bị hay các tài sản tương tự đầu tư trực tiếp. Vì thế rủi ro tỷ giá tăng lên trừ khi có
các phòng ngừa mang tính tự nhiên (sự sắp xếp doanh thu và chi phí ở cùng một
đồng tiền). Một chính sách tỷ giá hối đoái cố định của một quốc gia có thể giúp cô
lập rủi ro rủi ro tỷ giá. Kiềm chế mức độ thả nổi tỷ giá cùng với việc chính phủ cố
gắng kiểm soát đồng tiền trong một phạm vi chật hẹp, có khuynh hướng gây ra rủi
ro cao hơn là hệ thống tỷ giá cố định hay tỷ giá chuẩn tiền tệ. Hệ thống tỷ giá hối
đoái thả nổi thông thường duy trì rủi ro thấp hơn đối với việc gây ra một sự dịch
chuyển tỷ giá bất lợi không mong đợi. Mức độ đánh giá cao hay thấp của một đồng
tiền cũng có thể giúp cô lập rủi ro tỷ giá hối đoái.
- Rủi ro vị trí hay rủi ro vùng lân cận bao hàm các hiệu ứng dây chuyền gây nên bởi
những khó khăn trong một khu vực, bởi một nước đối tác của một quốc gia, hay
trong các quốc gia với những tính chất tương tự. Tính chất lây lan thể hiện tiêu biểu
ở các quốc gia Latin vào những năm 1980, sự lây lan ở châu Á vào năm 1997-1998.
Vị trí địa lý cung cấp sự đo lường đơn giản nhất về rủi ro vị trí. Các đối tác giao
5
dịch, các đồng minh thương mại quốc tế (như Mercousur, NAFTA, và EU), quy
mô, biên giới, và khoảng cách đối với các quốc gia quan trọng về kinh tế hay về
chính trị hay các khu vực cũng có thể giúp xác định rủi ro vị trí.
- Rủi ro thể chế liên quan đến việc hoặc một chính phủ sẽ không sẵn lòng hay không
thể đáp ứng được các nghĩa vụ nợ, hoặc là có thể bội ước các cam đoan đối với các
khoản vay nợ. Rủi ro tự chủ có thể liên quan đến rủi ro chuyển giao mà một chính
phủ có thể cạn kiệt ngoại hối do sự tiến triển không thuận lợi trong cán cân thanh
toán. Nó cũng liên quan đến rủi ro chính trị trong trường hợp mà một chính phủ có
thể quyết định không thực hiện đúng hẹn những cam kết vì mục đích chính trị. Rủi
ro này đặc biệt quan trọng đối với người cho vay cá nhân. Khi chính phủ một quốc
gia quyết định không đáp ứng nghĩa vụ nợ của họ, người cho vay cá nhân thực tế
không thể kiện chính phủ nước ngoài. Đo lường rủi ro tự chủ đối với khả năng chi
trả của một chính phủ là tương tự như đo lường rủi ro chuyển giao. Đo lường thiện
chí chi trả đòi hỏi một sự đánh giá lịch sử thể hiện thanh toán của một chính phủ,
đòi hỏi một sự phân tích đối với các chi phí tiềm tàng của khoản nợ từ chối thực
hiện của chính phủ vay mượn (quốc gia này sẽ bị ngăn chặn trong việc tiếp cận thị
trường vốn quốc tế, uy tín quốc tế bị huỷ hoại…), và đòi hỏi một nghiên cứu về
những tiềm tàng đối với việc tái lập thời hạn nợ bởi những hiệp hội các nhà cho vay
cá nhân hay các định chế quốc tế.
- Rủi ro chính trị liên quan đến một thay đổi trong thể chế chính trị xuất phát từ một
thay đổi trong quyền lực kiểm soát chính phủ, cơ cấu xã hội, hay nhân tố phi kinh
tế khác. Loại rủi ro này bao hàm khả năng tiềm tàng đối với những xung đột bên
trong và bên ngoài, rủi ro sung công. Đánh giá rủi ro này đòi hỏi phân tích nhiều
nhân tố, bao gồm các mối quan hệ của các đảng phái khác nhau trong một quốc gia,
quá trình ra quyết định trong chính phủ, và lịch sử của quốc gia đó. Việc bảo hiểm
hiện có đối với các rủi ro chính trị, có thể đạt được từ một số các cơ quan chính phủ
(như Công ty đầu tư tư nhân hải ngoại ở Mỹ) và các tổ chức quốc tế (như Cơ quan
bảo đảm đầu tư đa phương của Ngân hàng Thế giới). Một vài đo lường dịnh lượng
hiện nay giúp đánh giá rủi ro chính trị. Phương pháp đo lường xếp loại từ những
phương pháp phân loại khác nhau (như kiểu cấu trúc chính trị, phạm vi và tính đa
6
dạng của cấu trúc dân tộc, những rắc rối tranh chấp dân sự hay bên ngoài), được
quan sát hay phân tích bởi các chuyên gia chính trị. Các nhà phân tích của công ty
có thể phát triển các ước lượng rủi ro chính trị cho công việc kinh doanh của họ
thông qua các cuộc thảo luận với các cơ quan địa phương hay các công ty khác hoạt
động trên cùng lĩnh vực trong quốc gia đó.
1.3 Các nhân tố tác động đến rủi ro quốc gia
1.3.1 Các nhân tố kinh tế vĩ mô
Nhân tố đầu tiên trong các nhân tố này là quy mô và cấu trúc của nợ nước ngoài
trong mối quan hệ với nền kinh tế của quốc gia đó. Một cách cụ thể hơn là:
- Mức độ hiện tại của nợ ngắn hạn và khả năng tiềm tàng đưa đến một cuộc khủng
hoảng thanh khoản.
- Quy mô nợ nước ngoài của khu vực công, khả năng của chính phủ để tạo ra đủ thu
nhập, từ thuế và các nguồn khác, để đáp ứng nghĩa vụ nợ.
Điều kiện và tính dễ tổn thương của tài khoản vãng lai của quốc gia cũng là một
nhân tố quan trọng, bao gồm:
- Mức dự trữ quốc tế.
- Mức dự trữ nhập khẩu được cung cấp bởi dự trữ quốc tế của quốc gia.
- Tính quan trọng của hàng hóa xuất khẩu với tư cách là một nguồn thu nhập, sự hiện
hữu của bất kỳ cơ chế ổn định giá, và tính dễ tổn thương của quốc gia đối với một
sự sụt giảm trong thị trường xuất khẩu hay trong giá cả của một hàng hóa xuất
khẩu.
- Khả năng tiềm tàng đối với những biến động đột ngột trong tỷ giá hối đoái và tác
động lên giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia.
Vai trò của các nguồn vốn nước ngoài trong việc đáp ứng nhu cầu tài trợ của
quốc gia là một sự suy xét quan trọng khác trong việc phân tích rủi ro quốc gia,
bao gồm:
- Việc tiếp cận các thị trường tài chính quốc tế của quốc gia và những ảnh hưởng
tiềm tàng của một tổn thất trong tính thanh khoản của thị trường.
- Mối quan hệ của quốc gia với các nhà cấp tín dụng của khu vực tư nhân, bao gồm
7
sự tồn tại của những cam kết vay mượn và thái độ của các chủ ngân hàng đối với
quan hệ trong việc cho vay thêm đối với các nhà đi vay trong quốc gia đó.
- Vị thế hiện thời của quốc gia đối với các nhà cấp tín dụng đa phương và chính thức,
bao gồm khả năng của quốc gia để có đủ tư cách và chịu đựng được những chương
trình điều chỉnh kinh tế của IMF hay các chương trình phù hợp khác.
- Xu hướng trong đầu tư nước ngoài và khả năng của quốc gia trong việc thu hút
Những cơ hội của tiến trình tư nhân hóa của các thực thể thuộc sở hữu nhà nước.
Một số các nhân tố kinh tế vĩ mô quan trọng khác, bao gồm:
- Mức độ mà nền kinh tế của quốc gia có thể bị tác động bất lợi thông qua sự lây lan
các vấn đề khó khăn từ các quốc gia khác.
- Quy mô và tình hình của hệ thống ngân hàng của quốc gia, bao gồm hệ thống giám
sát hoạt động ngân hàng và bất kỳ gánh nặng tiềm tàng của các khoản nợ bất ngờ
mà một hệ thống ngân hàng yếu kém có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối
với chính phủ.
- Quy mô của vay mượn trực tiếp từ chính phủ hay sự can thiệp khác của chính phủ
có thể tác động bất lợi đến tính hoàn hảo của hệ thống ngân hàng, hay cơ cấu và
khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp hay các công ty được ưu đãi.
- Mức độ tác động mà các điều kiện kinh tế vĩ mô có thể gây ra bất lợi đối với rủi ro
tín dụng của các đối tác của nhà đầu tư trong quốc gia đó.
- Viễn cảnh kinh tế của bất kỳ ngành công nghiệp mục tiêu của quốc gia.
- Đầu tư nước ngoài trong tương lai.
1.3.2 Môi trường xã hội, chính trị và pháp luật
- Tiềm lực tự nhiên và nguồn nhân lực của quốc gia.
- Thiện chí và năng lực của chính phủ để nhận biết những vấn đề kinh tế và vấn đề
ngân sách và hành động để sữa chữa bổ sung thích hợp.
- Mức độ tác động của tư tưởng bè phái, chính trị hay xung đột vũ trang đến chính
phủ của quốc gia đó.
- Bất cứ xu hướng nào về việc đánh thuế giá cả, lãi suất, hay kiểm soát ngoại hối.
- Mức