NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
I. Bản chất của kế toán quản trị và kế toán quản trị chi phí
1. Bản chất của kế toán quản trị
Kế toán là hệ thống thu thập, xử lý và cung cấp thông tin về các hoạt động kinh tế xảy ra trong doanh nghiệp. Là ngành khoa học được hình thành và phát triển gắn liền vói sự phát triển của xã hội. Khi nền sản xuất phát triển kế toán cũng phát triển tương ứng để đáp ứng yêu cầu thông tin cho quản lý.
Khi cạnh tranh diễn ra ngày càng khốc liệt, các doanh nghiệp phải quan tâm đến các thông tin cho quá trình ra quyết định, mà thông tin hàng đầu là thông tin về chi phí cho hoạt động kinh doanh, từ đó hình thành nên bộ phận kế toán chi phí cung cấp thông tin về chi phí cho các nhà quản trị sử dụng trong nội bộ doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các công ty, các tập đoàn kinh tế thì nhu cầu thông tin cũng đã có sự thay đổi và theo mục đích cung cấp thông tin, hệ thống kế toán trong doanh nghiệp được chia thành kế toán tài chính và kế toán quản trị. Mục đích của kế toán tài chính là lập các báo cáo tài chính để cung cấp thông tin cho người sử dụng. Đây là nguồn thông tin duy nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp được cung cấp ra bên ngoài. Khác với kế toán tài chính, đối tượng sử dụng thông tin của kế toán quản trị chỉ là các nhà quản trị các cấp trong doanh nghiệp. Những người ngoài doanh nghiệp không được phép tiếp cận các thông tin kế toán quản trị của doanh nghiệp. Các thông tin này được coi là bí mật của doanh nghiệp.
Có thể nói kế toán quản trị là một bộ phận trong hệ thống thông tin của một tổ chức. Là bộ phận kế toán cung cấp thông tin cho những nhà quản lý tại doanh nghiệp thông qua các báo cáo kế toán nội bộ. Các nhà quản lý dựa vào thông tin kế toán quản trị để hoạch định và kiểm soát hoạt động của tổ chức. Khái niệm kế toán quản trị được Hiệp hội kế toán Mỹ định nghĩa:” Là quá trình định dạng, đo lường, tổng hợp, phân tích, lập báo biểu, giải trình và thông đạt các số liệu tài chính và phi tài chính cho ban quản trị để lập kế hoạch, theo dõi việc thực hiện kế hoạch trong phạm vị nội bộ một doanh nghiệp, đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các tài sản và quản lý chặt chẽ các tài sản này”.
58 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2521 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bản thảo chuyên đề 9 - 12, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
Bản chất của kế toán quản trị và kế toán quản trị chi phí
Bản chất của kế toán quản trị
Kế toán là hệ thống thu thập, xử lý và cung cấp thông tin về các hoạt động kinh tế xảy ra trong doanh nghiệp. Là ngành khoa học được hình thành và phát triển gắn liền vói sự phát triển của xã hội. Khi nền sản xuất phát triển kế toán cũng phát triển tương ứng để đáp ứng yêu cầu thông tin cho quản lý.
Khi cạnh tranh diễn ra ngày càng khốc liệt, các doanh nghiệp phải quan tâm đến các thông tin cho quá trình ra quyết định, mà thông tin hàng đầu là thông tin về chi phí cho hoạt động kinh doanh, từ đó hình thành nên bộ phận kế toán chi phí cung cấp thông tin về chi phí cho các nhà quản trị sử dụng trong nội bộ doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các công ty, các tập đoàn kinh tế thì nhu cầu thông tin cũng đã có sự thay đổi và theo mục đích cung cấp thông tin, hệ thống kế toán trong doanh nghiệp được chia thành kế toán tài chính và kế toán quản trị. Mục đích của kế toán tài chính là lập các báo cáo tài chính để cung cấp thông tin cho người sử dụng. Đây là nguồn thông tin duy nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp được cung cấp ra bên ngoài. Khác với kế toán tài chính, đối tượng sử dụng thông tin của kế toán quản trị chỉ là các nhà quản trị các cấp trong doanh nghiệp. Những người ngoài doanh nghiệp không được phép tiếp cận các thông tin kế toán quản trị của doanh nghiệp. Các thông tin này được coi là bí mật của doanh nghiệp.
Có thể nói kế toán quản trị là một bộ phận trong hệ thống thông tin của một tổ chức. Là bộ phận kế toán cung cấp thông tin cho những nhà quản lý tại doanh nghiệp thông qua các báo cáo kế toán nội bộ. Các nhà quản lý dựa vào thông tin kế toán quản trị để hoạch định và kiểm soát hoạt động của tổ chức. Khái niệm kế toán quản trị được Hiệp hội kế toán Mỹ định nghĩa:” Là quá trình định dạng, đo lường, tổng hợp, phân tích, lập báo biểu, giải trình và thông đạt các số liệu tài chính và phi tài chính cho ban quản trị để lập kế hoạch, theo dõi việc thực hiện kế hoạch trong phạm vị nội bộ một doanh nghiệp, đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các tài sản và quản lý chặt chẽ các tài sản này”.
Theo luật kế toán Việt Nam, kế toán quản trị được định nghĩa là “việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán “(Luật kế toán, khoản 3, điều 4).
Nói tóm lại, kế toán quản trị là một lĩnh vực kế toán được thiết kế để thoả mãn nhu cầu thông tin của các nhà quản lý và các cá nhân khác làm việc trong một tổ chức.
Về bản chất: Kế toán quản trị là một quá trình đo lường.
Một hệ thống kế toán quản trị tốt là một hệ thống đo lường tốt, hướng vào quy trình sản xuất và có tác động tích cực đến hành vi của các cá nhân trong tổ chức cùng hướng vào thực hiện mục tiêu chiến lược của tổ chức.
Hệ thống đo lường tốt phải có hai đặc điểm chính:
Thông tin mà nó đưa ra phải thích hợp và có tác động làm thay đổi hay cải thiện các quyết định theo hướng tích cực. Nếu nhà quản lý không biết hay không đưa ra được quyết định đúng thì thông tin được đưa ra không còn thích hợp. Ví dụ : Hệ thống kế toán quản trị tiếp tục thu thập và báo cáo các thông tin về sử dụng lao động trong phân xưởng sản xuất ngay cả khi sản xuất đã được tự động hóa, làm cho chi phí nhân công chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng chi phí, vì vậy thông tin chẳng bao giờ được sử dụng.
Tập trung vào đo lường kết quả theo từng trung tâm trách nhiệm trong tổ chức. Ngày nay nhà quản lý hiểu rằng kết quả ngày mai là nằm trong tổ chức thực hiện công việc sản xuất sản phẩm hay dịch vụ ngay trong hôm nay. Do quá trình sản xuất hay dịch vụ được diễn ra theo chiều ngang, nghĩa là diễn ra trong các bộ phận của tổ chức và hệ thống đo lường thông qua hệ thống trách nhiệm của tổ chức. Hệ thống kế toán quản trị hướng vào quy trình sản xuất chủ yếu là hướng vào việc đo lường tính toán kết quả của quy trình sản xuất, theo từng bộ phận tham gia trong quy trình nhằm thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Như vậy một hệ thống kế toán quản trị tốt giúp cho việc ra các quyết định, giúp hiểu biết quá trình sản xuất kinh doanh, khuyến khích các hành vi thích hợp. Và tất cả những cái đó nhằm đạt mục tiêu chiến lược: Chất lượng, thời gian và giá cả. Điều này cũng có nghĩa là kế toán quản trị tự nó không phải là điểm kết thúc, nó là công cụ quan trọng để đạt mục tiêu chiến lược cho tổ chức.
Kế toán quản trị là một bộ phận kế toán cung cấp thông tin cho những nhà quản lý doanh nghiệp thông qua các báo cáo kế toán nội bộ, các thông tin cung cấp trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp bao gồm thông tin tài chính và thông tin phi tài chính như:
- Thông tin về chi phí sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp.
- Quá trình lập các dự toán cung cấp thông tin cho việc xây dựng kế hoạch và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch hướng đến các mục tiêu trên thị trường của doanh nghiệp.
- Thiết kế để lập báo cáo và phân tích các báo cáo cung cấp các thông tin đặc thù để giúp các nhà quản trị ra quyết định kinh doanh.
Bản chất của kế toán quản trị chi phí
Trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí thường xuyên phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp và chịu sự chi phối của nhà quản trị, mọi quyết định trong doanh nghiệp đều liên quan đến việc sử dụng tài nguyên, đến chi phí của doanh nghiệp trong việc hình thành giá trị. Quá trình này thường gắn liền với lợi ích mong muốn của DN. Ở đây chi phí được hiệu là giá trị của mọi khoản khấu hao về nhân tài vật lực nhằm thu được các loại hàng hóa dịch vụ.
Chi phí có thể xem xét ở nhiều góc độ khác nhau để cung cấp thông tin phù hợp với nhu cầu của nhà quản trị, trong đó việc xem xét chi phí trong mối quan hệ với khối lượng, hay mức độ hoạt động với lợi nhuận có thể được xem là đối tượng chủ yếu của kế toán quản trị. Như vậy, các loại chi phí đặt trong mối quan hệ khác nhau và quan hệ với lợi ích mang lại cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai là đối tượng cụ thể của kế toán quản trị chi phí. Không những thế vì KTQT chi phí quan tâm đến khía cạnh của quản trị là chủ yếu, do đó quá trình kiểm soát, kiểm tra phải điều chỉnh trong quản trị cần thiết phải có cả thông tin tài chính cũng như thông tin phi tài chính nên đây là một đối tượng cụ thể của KTQT chi phí.
Khởi điểm của kế toán quản trị chi phí là kế toán chi phí. Kế toán chi phí là giai đoạn đầu của sự phát triển của KTQT chi phí. Kế toán quản trị bao gồm việc tập hợp phân loại, tính giá theo yêu cầu nhất định của KTTC và KTQT nhằm cung cấp thông tin kế toán mà chủ yếu là thông tin về chi phí cho các nhà quản trị nhưng có sự khác nhau về mục đích và phạm vi giữa hai loại kế toán này. Với KTTC, kế toán chi phí là cở sở xác định chi phí và thu nhập thể hiện trên báo cáo lãi lỗ kinh doanh trong kỳ kế toán. Với KTQT, kế toán chi phí được sử dụng để tính giá thành, lập dự toán chi phí …làm cơ sở để phân tích chi phí và ra quyết định.
KTQT chi phí nhấn mạnh đến tính dự báo của thông tin và trách nhiệm của các nhà quản lý thuộc các cấp quản lý (trong đó tập trung vào các cấp quản trị cấp thấp như tổ, đội phân xưởng sản xuất hay bộ phận quản lý và phục vụ - là nơi trực tiếp phát sinh chi phí) nhằm gắn trách nhiệm của các nhà quản trị với chi phí phát sinh thông qua hình thức thông tin chi phí được cung cấp theo các trung tâm chi phí (nguồn gây ra chi phí). KTQT chi phí trả lời câu hỏi chi phí sẽ là bao nhiêu, thay đổi như thế nào khi có sự thay đổi về mặt sản lượng sản xuất, ai phải chịu trách nhiệm giải thích về những thay đổi bất lợi của chi phí và giải pháp cần đưa ra để điều chỉnh. Điều này cho thấy KTQT chi phí mang nặng tính bản chất của KTQT nhiều hơn là kế toán chi phí thuần túy.
Như vậy, KTQT chi phí không nhận thức chi phí theo quan điểm của KTTC mà nhận diện theo nhiều phương diện khác nhau để đáp ứng nhu cầu thông tin trong hoạch định, tổ chức thực hiện, kiểm soát và ra quyết định. Từ đó có thể rút ra bản chất của KTQT chi phí như sau:
- KTQT chi phí không chỉ thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh đã thực sự hoàn thành, đã ghi chép, hệ thống hóa trong sổ kế toán mà còn xử lý và cung cấp các thông tin phục vụ cho việc lập các dự toán, quyết định các phương án kinh doanh.
- KTQT chi phí cung cấp các thông tin về hoạt động kinh tế tài chính trong phạm vi yêu cầu quản lý nội bộ của DN. Những thông tin đó có ý nghĩa với những bộ phận, những người điều hành, quản lý DN.
- KTQT chi phí là một bộ phận của công tác kế toán nói chung và là một bộ phận không thể thiếu được để kế toán thực sự trở thành công cụ quản lý.
II. Kế toán quản trị chi phí với chức năng quản lý doanh nghiệp
Để điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp các nhà quản trị phải thông qua các chức năng quản lý cơ bản như hoạch định, tổ chức, kiểm soát, đánh giá và ra quyết định. Còn KTQT chi phí sử dụng các phương pháp riêng có của mình để thiết kế, tổng hợp, phân tích và truyền đạt thông tin, đặt chúng trong bối cảnh đã hoạch định nhằm cung cấp những thông tin hữu ích cho các chức năng quản trị. Vậy KTQT chi phí có vai trò cung cấp thông tin chi phí phục vụ cho các chức năng quản trị. Cụ thể:
- Cung cấp thông tin cho quá trình lập kế hoạch và dự toán.
Lập kế hoạch là xây dựng mục tiêu phải đạt được và vạch ra bước, phương pháp thực hiện để đạt được mục tiêu đó. Dự toán là sự liên kết các mục tiêu cụ thể lại với nhau và chỉ rõ cách thức huy động, sử dụng các nguồn lực sẵn có về mặt tài chính để đạt được các mục tiêu đó. Chức năng lập kế hoạch và dự toán của quản lý được thực hiện tốt, có tính hiệu lực hiệu quả và khả thi cao nếu nó được xây dựng trên cơ sở các thông tin phù hợp, hợp lý do bộ phận KTQT chi phí cung cấp như: Thông tin cho việc định giá sản phẩm, lựa chọn sản xuất sản phẩm nào có lợi nhất trong điều kiện thị trường có cạnh tranh. Đồng thời những thông tin về giá, định mức chi phí hay các phương pháp phân bổ chi phí giúp cho công tác lập kế hoạch và dự toán cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà quản trị. Như vậy, KTQT chi phí phải cung cấp thông tin cần thiết để các nhà quản lý ra quyết định ngắn hạn, dài hạn đáp ứng mục tiêu của tổ chức. Một kế hoạch phản ánh một quyết định làm sao để đạt được một mục tiêu cụ thể nào đó.
- Cung cấp thông tin cho quá trình tổ chức thực hiện.
Kế hoạch và dự toán là những định hướng cho quá trình tổ chức thực hiện. Chức năng tổ chức thực hiện bao gồm thiết lập cơ cấu tổ chức và truyền đạt thông tin của các kế hoạch đến những cá nhân có trách nhiệm trong tuyến quản lý để thực hiện kế hoạch đó.
Với chức năng này nhà quản trị phải biết liên kết tốt nhất giữa các bộ phận, giữa các cá nhân nhằm huy động và kết hợp các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp lại với nhau để thực hiện các mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất. Vì thế, nhà quản trị phải cần có các thông tin khác nhau do nhiều bộ phận cung cấp, trong đó KTQT chi phí sẽ cung cấp thông tin chủ yếu liên quan đến kinh tế, tài chính. KTQT chi phí sẽ dự toán nhiều tình huống khác nhau của các phương án khác nhau để nhà quản trị xem xét đề ra các quyết định trong quá trình tổ chức thực hiện cũng như điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo các mục tiêu chung.
- Cung cấp thông tin cho quá trình kiểm tra và đánh giá.
Sau khi lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch đòi hỏi nhà quản trị phải kiểm tra và đánh giá việc thực hiện đó. Phương pháp thực hiện là phân tích sai biệt trên cơ sở so sánh giữa các số liệu kế hoạch hoặc dự toán với số liệu thực hiện. Từ đó nhận biết các sai biệt giữa kết quả thực hiện với kế hoạch đề ra, chỉ ra những vấn đề còn tồn tại cần giải quyết hoặc các cơ hội cần khai thác.
- Cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định
Quá trình ra quyết định là việc xem xét, cân nhắc lựa chọn từ các phương án khác nhau để có được phương án tối ưu với hiệu quả cao nhất và rủi ro thấp nhất. Các thông tin sẵn có thường rất nhiều loại, với chức năng này KTQT chi phí giúp các nhà quản trị phân biệt được các thông tin thích hợp và không thích hợpnhằm xác định thông tin phù hợp theo từng phương án. Việc nhận diện thông tin sẽ tập trung sự chú ý của các nhà quản trị vào vấn đề chính cần giải quyết, giảm thời gian ra quyết định, đáp ứng được yêu cầu của nhà quản trị trong tình hình cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường. Tổ chức KTQT chi phí hợp lý sẽ giúp cho đơn vị có được hệ thống kế toán hoạt động hiệu quả, đảm bảo cung cấp thông tin hữu ích và đầy đủ nhất. Với những thông tin đó, các nhà quản trị có thể nhìn nhận được vấn đề gì đang xảy ra, những khả năng tiềm tàng, những cơ hội sẵn có để có kế hoạch kinh doanh đúng đắn.
III. Chi phí và phân loại chi phí
1. Khái niệm chi phí
Chi phí là một phạm trù kinh tế hết sức trừu tượng và phức tạp. Trước hết chúng ta thấy rằng, một doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh hàng hóa phải hao phí một số lao động nhất định để tạo ra giá trị của hàng hóa đó.
Và để có được sự nhìn nhận toàn diện và sát thực về chi phí, theo quan điểm kế toán tài chính thì “ Chi phí của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định”.
Chi phí theo quan điểm của kế toán quản trị: Theo quan điểm của kế toán quản trị chi phí không chỉ đơn thuần được nhận thức như quan điểm kế toán tài chính mà còn được nhận thức theo nhiều phương diện khác nhau nhằm mục đích cung cấp thông tin chi phí thích hợp, hữu ích, kịp thời cho các nhà quản trị trong việc hoạch định, kiểm soát và ra quyết định. Theo đó, chi phí có thể là dòng phí tổn thực tế gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh hằng ngày của doanh nghiệp, chi phí cũng có thể là dòng phí tổn ước tính để thực hiện dự án hoặc là những phí tổn bị mất đi do lựa chọn phương án, hy sinh cơ hội kinh doanh và những chi phí sẽ được kiểm soát bởi một cấp quản lý khác.
2. Phân loại chi phí
Thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh cho thấy, chi phí trong doanh nghiệp bao gồm nhiều khoản, nhiều loại rất đa dạng và phức tạp như: chi mua nguyên vật liệu, tiền lương, tiền điện, nước, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí vận chuyển, chi phí bán hàng, quản lý........Để sử dụng có hiệu quả, chúng ta cần phải kiểm soát, muốn kiểm soát chúng ta phải nhận biết và hiểu nội dung các chi phí,vì vậy cần phải phân loại chi phí. Có các tiêu chí phân loại chi phí sau:
2.1.Phân loại theo chức năng hoạt động của chi phí
2.1.1 Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất là toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh trong một kỳ nhất định. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp bao gồm : chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
2.1.1.1 Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nguyên vật liệu là một đầu vào hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Và mỗi doanh nghiệp khác nhau, mỗi lĩnh vực kinh doanh khác nhau thì mức độ quan trọng và quyết định của nó đến giá thành sản phẩm cũng khác nhau. Ví như trong các ngành công nhiệp nặng, chi phí nguyên vật liệu chiếm phần lớn tổng giá thành của sản phẩm. Trong khi đó, đối với các ngành kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn, giải trí v. v...thì chi phí nguyên vật liệu lại chiếm một tỷ trọng rất nhỏ. Chính vì sự phức tạp đó mà chúng ta phải phân loại nó.
Chi phí nguyên vật liệu có thể phân chia thành:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Là chi phí của các loại nguyên vật liệu được sử dụng để cấu thành nên sản phẩm và có thể được phân loại trực tiếp và toàn bộ vào đơn vị sản phẩm đó.
Chi phí nguyên vật liệu gián tiếp:
Là chi phí của các loại nguyên liệu, vật liệu cần thiết để chế tạo sản phẩm nhưng không thể nhận diện và tách biệt cho từng sản phẩm. Vì vậy, chi phí này không thể phân bổ trực tiếp và toàn bộ vào một đơn vị sản phẩm được sản xuất ra.
2.1.1.2 Chi phí nhân công trực tiếp
Khoản mục này bao gồm toàn bộ tiền lương và các khoản trích theo lương của những người lao động trực tiếp chế tạo sản phẩm. Khả năng và kỹ năng của lao động trực tiếp có ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng sản phẩm tạo ra. Thông thường những lao động này trực tiếp xử lý NVLTT bằng tay hoặc thông qua việc sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc máy móc thiết bị.
Chi phí NCTT cũng giống như chi phi NVLTT, có thể xác định rõ ràng, cụ thể và tách biệt cho từng đơn vị sản phẩm nên được tính thẳng vào từng đơn vị sản phẩm.
Ngoài NCTT còn có NC gián tiếp: NC gián tiếp là những lao động không trực tiếp tạo ra sản phẩm nhưng cần thiết và không thể thiếu cho quá trình sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất của lao động trực tiếp như: quản đốc phân xưởng, nhân viên bảo trì máy...Chi phí thanh toán cho NC gián tiếp không thể phân bổ cho bất kỳ sản phẩm cá biệt nào nên phải đưa vào chi phí sản xuất chung để phân bổ sau.
2.1.1.3 Chi phí sản xuất chung
Chi phí SXC là những chi phí cần thiết khác để sản xuất ngoài chi phi NVLTT và chi phí NCTT. Chi phi SXC bao gồm 3 loại chi phí, đó là chi phí NVL gián tiếp, chi phí NC gián tiếp và các chi phí khác. Chi phí khác bao gồm các chi phí cần thiết khác để vận hành phân xưởng. Ví dụ: chi phí thuê nhà phân xưởng, chi phí khấu hao máy móc, thiết bị, chi phí điện nước, chi phí động lực, chi phí bảo hiểm chống cháy…
Chi phí SXC có đặc điểm là:
- Bao gồm nhiều yếu tố chi phí khác nhau.
- Các chi phí thuộc chi phí SXC đều có tính gián tiếp với từng đơn vị sản phẩm, nên không thể tính thẳng vào sản phẩm.
- Cơ cấu chi phí SXC gồm cả biến phí, định phí, và chi phí hỗn hợp, trong đó định phí chiếm tỷ trọng cao nhất.
- Do gồm nhiều yếu tố chi phí nên chúng được nhiều bộ phận khác nhau quản lý và rất khó kiểm soát.
Chi phí SXC cũng được tính vào sản phẩm cùng với chi phí NVLTT và chi phí NCTT. Do đặc điểm của chi phí SXC là không tính trực tiếp vào sản phẩm thông qua việc phân bổ theo các tiêu thức thích hợp.
Chi phí ngoài sản xuất
Chi phí ngoài sản xuất của doanh nghiệp bao gồm các loại chi phí phát sinh ngoài quá trình sản xuất sản phẩm, liên quan đến quá trình tiêu thụ sản phẩm hoặc phục vụ công tác quản lý chung toàn doanh nghiệp. Thuộc loại chi phí này gồm có hai khoản mục chính; chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Chi phí bán hàng: bao gồm các chi phí phát sinh phục vụ cho khâu tiêu thụ sản phẩm .....
Chi phí quản lý doanh nghiệp là các chi phí dùng vào tổ chức, quản lý và phục vụ sản xuất kinh doanh có tính chất chung toàn doanh nghiệp. Cụ thể, chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm :
- Chi phí tiền lương và các trích theo lương vào chi phí của người lao động, quản lý ở các bộ phận phòng ban của doanh nghiệp.
- Chi phí vật liệu, năng lượng, công cụ dụng cụ dùng trong hành chính quản trị văn phòng.
- Chi phí khấu hao thiết bị, tài sản cố định khác dùng trong công việc hành chính của văn phòng.
- Chi phí dịch vụ điện nước, điện thoại, bảo hiểm phục vụ chung cho toàn doanh nghiệp.
- Các khoản thuế, lệ phí chưa tính vào giá trị tài sản.
- Các khoản phí liên quan đến sự giảm sút giá trị tài sản như dự phòng nợ phải thu khó đòi, hao hụt trong khâu dự trữ.
Như vậy chi phí quản lý doanh nghiệp cũng là một khoản mục chi phí gồm nhiều thành phần có đặc điểm khác nhau và khá phức tạp. Đây là khoản mục chi phí liên quan khá chặt chẽ đến quy mô, trình độ tổ chức quản trị doanh nghiệp. Vì vậy sự nhận diện và phân cấp quản lý, phân bổ chi phí quản lý doanh nghiệp rất khó khăn, đôi khi dẫn đến mức phân bổ sai lệch cho các sản phẩm, dịch vụ làm đánh giá sai lầm thành quả đóng góp, kiềm chế tính năng động và sáng tạo của các bộ phận.
2.2. Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với lợi nhuận xác định từng thời kỳ
2.2.1. Chi phí sản phẩm
Chi phí sản phẩm bao gồm các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất sản phẩm, do vậy các chi phí này kết hợp tạo nên giá trị của sản phẩm hình thành qua giai đoạn sản xuất ( được gọi là giá thành sản xuất hay giá thành công xưởng). Xét theo mối quan