Bản trình bày của đoàn Chủ tịch về ý kiến thảo luận của các đại biểu đối với các văn kiện Đại hội X của Đảng

Từ chiều 18 đến hết ngày 20 – 4 –2006, Đại hội thảo luận phần văn kiện. Đã có 1.553 lượt ý kiến phát biểu ở đoàn và 29 ý kiến ở hội trường. Không khí thảo luận rất sôi nổi, liên tục có tranh luận. Nội dung các ý kiến rất phong phú, thẳng thắn, tâm huyết. Hầu hết các ý kiến nhất trí cao với nội dung các báo cáo, cho rằng các báo cáo được chuẩn bị công phu, dân chủ, nội dung thể hiện tính chiến đấu, tính tổng kết cao; kết cấu hợp lý, văn phong sáng sủa, ngắn gọn, dễ hiểu; sau khi tiếp thu ý kiến của đại hội đảng bộ các cấp, ý kiến của đảng viên, cán bộ và nhân dân, chất lượng các báo cáo được nâng lên rõ rệt, nhất là những nội dung lớn. Nhiều ý kiến cho rằng, việc công bố dự thảo Báo cáo chính trị để lấy ý kiến toàn Đảng, toàn dân trước Đại hội là một việc làm rất hay, rất đúng, làm cho Báo cáo chính trị thực sự là kết qủa đóng góp trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Các ý kiến phát biểu tại Đại hội đã phân tích làm sáng tỏ, sâu sắc thêm và bổ sung nhiều nội dung quan trọng, cả trên quan điểm chung và trên từng lĩnh vực cụ thể. Một số ý kiến cho rằng cần xem lại một số nhận định, một số chi tiết để bảo đảm tính chính xác, thống nhất giữa các báo cáo, cũng như giữa các phần trong mỗi báo cáo, tránh mâu thuẫn, thiếu nhất quán. Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho tiếp thu những ý kiến hợp lý, xác đáng để hoàn chỉnh các văn kiện Đại hội, đồng thời để chỉ đạo trong hoạt động thực tiễn. Đối với một số vấn đề khó, còn có ý kiến khác nhau, xin cho ghi nhận để tiếp tục nghiên cứu kỹ hơn sau Đại hội X. Những kiến nghị sửa đổi một số từ ngữ, sắp xếp lại câu chữ hoặc chữa một số lỗi văn phạm, xin giao cho Bộ Chính trị khoá X chỉ đạo sửa chữa, hoàn thiện trước khi công bố chính thức.

doc21 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1951 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bản trình bày của đoàn Chủ tịch về ý kiến thảo luận của các đại biểu đối với các văn kiện Đại hội X của Đảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bản trình bày của đoàn Chủ tịch về ý kiến thảo luận của các đại biểu đối với các văn kiện Đại hội X của Đảng (Do đồng chí Nguyễn Phú Trọng trình bày ngày 24 tháng 4 năm 2006)  Kính thưa Đoàn Chủ tịch, Thưa các đồng chí, Từ chiều 18 đến hết ngày 20 – 4 –2006, Đại hội thảo luận phần văn kiện. Đã có 1.553 lượt ý kiến phát biểu ở đoàn và 29 ý kiến ở hội trường. Không khí thảo luận rất sôi nổi, liên tục có tranh luận. Nội dung các ý kiến rất phong phú, thẳng thắn, tâm huyết. Hầu hết các ý kiến nhất trí cao với nội dung các báo cáo, cho rằng các báo cáo được chuẩn bị công phu, dân chủ, nội dung thể hiện tính chiến đấu, tính tổng kết cao; kết cấu hợp lý, văn phong sáng sủa, ngắn gọn, dễ hiểu; sau khi tiếp thu ý kiến của đại hội đảng bộ các cấp, ý kiến của đảng viên, cán bộ và nhân dân, chất lượng các báo cáo được nâng lên rõ rệt, nhất là những nội dung lớn. Nhiều ý kiến cho rằng, việc công bố dự thảo Báo cáo chính trị để lấy ý kiến toàn Đảng, toàn dân trước Đại hội là một việc làm rất hay, rất đúng, làm cho Báo cáo chính trị thực sự là kết qủa đóng góp trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Các ý kiến phát biểu tại Đại hội đã phân tích làm sáng tỏ, sâu sắc thêm và bổ sung nhiều nội dung quan trọng, cả trên quan điểm chung và trên từng lĩnh vực cụ thể. Một số ý kiến cho rằng cần xem lại một số nhận định, một số chi tiết để bảo đảm tính chính xác, thống nhất giữa các báo cáo, cũng như giữa các phần trong mỗi báo cáo, tránh mâu thuẫn, thiếu nhất quán. Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho tiếp thu những ý kiến hợp lý, xác đáng để hoàn chỉnh các văn kiện Đại hội, đồng thời để chỉ đạo trong hoạt động thực tiễn. Đối với một số vấn đề khó, còn có ý kiến khác nhau, xin cho ghi nhận để tiếp tục nghiên cứu kỹ hơn sau Đại hội X. Những kiến nghị sửa đổi một số từ ngữ, sắp xếp lại câu chữ hoặc chữa một số lỗi văn phạm, xin giao cho Bộ Chính trị khoá X chỉ đạo sửa chữa, hoàn thiện trước khi công bố chính thức. Dưới đây, Đoàn Chủ tịch xin trình bày rõ thêm một số vấn đề lớn, quan trọng để Đại hội xem xét, quyết định: 1. Về chủ đề Đại hội X Nhiều ý kiến nhất trí với chủ đề Đại hội, cho rằng chủ đề này đã thể hiện đầy đủ, ngắn gọn, súc tích và có tính khái quát cao, nêu rõ cả mục tiêu, động lực trước yêu cầu phát triển của cách mạng nước ta và của thời đại; khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong nhiệm kỳ tới. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng chủ đề nêu như hiện nay chưa đáp ứng được mong mỏi của đảng viên, nhân dân; chưa mạnh mẽ và chưa tạo ra được sức đột phá mới. Một số ý kiến đề nghị bổ sung, sửa đổi cụ thể như sau: - Có ý kiến đề nghị bổ sung ý: “giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, vì đây là vấn đề có tính nguyên tắc của Đảng. - Ý kiến khác đề nghị thêm những cụm từ như: “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, “đại đoàn kết toàn dân tộc”, “đẩy mạnh chỉnh đốn, xây dựng Đảng”, “giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng”. Có ý kiến đề nghị nên nói “Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng”. - Có ý kiến đề nghị phải nhấn mạnh vấn đề “nâng cao sức chiến đấu của Đảng”; ý kiến khác đề nghị bỏ bớt 4 từ “và sức chiến đấu”, vì “năng lực lãnh đạo” đã bao gồm cả “sức chiến đấu rồi”. Có ý kiến đề nghị viết “phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc”, “Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới”, “kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng”... - Một số ý kiến đề nghị xem lại từ “sớm” trong “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”, vì từ này mới thể hiện định tính, chưa có định lượng, chưa biết “sớm” là như thế nào. Viết “sớm” có vẻ “mềm” quá, nên thay bằng từ “ nhanh chóng” hoặc “quyết tâm”. Cụm từ “kém phát triển” có nghĩa tiêu cực, nên thay bằng cụm từ “đưa nước ta trở thành nước phát triển”, “đưa nước ta thành nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Đoàn Chủ tịch xin có ý kiến như sau: Chủ đề Đại hội là tư tưởng chỉ đạo định hướng hoạt động của Đảng, xác định nhiệm vụ trọng tâm trong mỗi thời kỳ nhất định. Vì vậy phải ngắn gọn, tập trung nêu bật những thành tố quan trọng nhất, những định hướng lớn nhất, có tính chỉ đạo tư tưởng hành động của toàn Đảng, toàn dân ta những năm tới. Trong chủ đề, không thể đưa vào quá nhiều nội dung, vả lại, bổ sung bao nhiêu cũng không đủ, càng làm phân tán chủ đề. Bốn thành tố của chủ đề Đại hội (cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị) hiện nay đã thể hiện được tinh thần đó: - Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là thành tố đầu tiên, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong tình hình hiện nay, cơ hội và thách thức đan xen nhau, rất nhiều vấn đề mới đặt ra, hơn lúc nào hết chúng ta phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng giàu trí tuệ, trong sạch, vững mạnh. Những ý kiến thảo luận tại Đại hội đảng bộ các cấp cũng như ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vừa qua bày tỏ sự quan tâm sâu sắc đến công tác xây dựng Đảng, mong muốn Đảng ta phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, chống cho được tham nhũng, tiêu cực, để lãnh đạo đất nước tiếp tục đi lên. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách; năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện; tổng kết lý luận – thực tiễn, tạo thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng; lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân (nếu chỉ nói năng lực cầm quyền thì chưa bao quát được hết các lĩnh vực lãnh đạo của Đảng). Nâng cao sức chiến đấu của Đảng là làm cho từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp uỷ đảng, nói chung là toàn Đảng phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, không nể nang, né tránh, “dĩ hoà vi quý”; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, ở trong tổ chức đảng, cơ quan nơi mình sinh hoạt, công tác, ở trong Đảng và trong xã hội, dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch. - Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là thành tố thứ hai của chủ đề, chỉ rõ yêu cầu phải động viên đến cao độ sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, của đồng bào trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, của mọi lĩnh vực hoạt động trên đất nước ta; giải phóng mọi tiềm năng, phát huy mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế; phát huy sức mạnh của truyền thống, lịch sử, văn hoá dân tộc và ý chí kiên cường của người Việt Nam để thực hiện bằng được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. - Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới thể hiện yêu cầu tiếp tục đổi mới một cách mạnh mẽ và đồng bộ hơn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ tư duy, nhận thức đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại; từ hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị – xã hội; từ  hoạt động của cấp trung ương đến hoạt động của địa phương, cơ sở. - Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển là mục tiêu trực tiếp của nhiệm kỳ 2006 – 2010. Đại hội IX đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2001 - 2010) nhằm “đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Đại hội X nêu quyết tâm sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, hàm ý phấn đấu hoàn thành chiến lược nói trên trước năm 2010. Đây là điều mong mỏi thiết tha, là đòi hỏi bức xúc của toàn Đảng, toàn dân ta. Nêu “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” không có nghĩa tiêu cực, bi quan, trái lại, đã thể hiện sự nhìn nhận nghiêm túc, khách quan về tình hình đất nước hiện nay, cổ vũ nhân dân ta vươn lên với tinh thần tự tôn dân tộc và quyết tâm cao để đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, có nghĩa là thoát khỏi tình trạng thu nhập bình quân đầu người thấp, chỉ số phát triển con người thấp và tình trạng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội lạc hậu, thiếu thốn. Cũng cần nói thêm rằng, mục tiêu đó là có tính khả thi. Bởi vì theo tính toán của các cơ quan chức năng, nếu chúng ta thực hiện được mức tăng GDP 7,5 – 8%/năm thì đến năm 2009 nước ta sẽ đạt mức GDP bình quân đầu người trên 950 USD, tức là đạt mục tiêu ra khỏi tình trạng nước đang phát triển có thu nhập thấp (theo quy chuẩn của Liên hợp quốc). Vì vậy, Đoàn Chủ tịch xin kiến nghị:  Đại hội cho khẳng định chủ đề của Đại hội X là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” (Ban Chấp hành Trung ương khoá IX biểu quyết với tỉ lệ 90,7% tán thành). 2. Về đánh giá thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và nhìn lại 20 năm đổi mới Hầu hết các ý kiến đồng tình với đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và kết quả 20 năm đổi mới, cho rằng phần này viết sát, đúng, chặt chẽ, toàn diện, súc tích, phù hợp với thực tiễn đất nước. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị chỉ nên nhận định 5 năm qua “đã đạt được một số thành tựu quan trọng” và không nên nói thành tựu 20 năm đổi mới “có ý nghĩa lịch sử”, vì như thế là chủ quan, quá nhấn mạnh thành tích. Một số ý kiến đề nghị trong đánh giá thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, cần dựa vào các chỉ tiêu của Đại hội để tránh cảm tính. Ví dụ chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân đã đạt kế hoạch 7,5%/năm, song vẫn nhận định là “chưa tương xứng với khả năng”. Nên xem lại nhận định “nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm”. Có ý kiến cho rằng, nông nghiệp, nông thôn và nông dân là vấn đề chiến lược của Đảng, nhưng văn kiện đề cập chưa sâu, chưa làm rõ những thành tựu cũng như yếu kém trong lĩnh vực này. Về 20 năm đổi mới, một số ý kiến đề nghị cần nhấn mạnh mặt trái của cơ chế thị trường xâm nhập quá nhanh, nhưng các giải pháp khắc phục còn chắp vá, chưa theo kịp thực tế; đề nghị đánh giá rõ hơn 4 nguy cơ và dự báo hậu quả do các nguy có đó gây ra để có biện pháp khắc phục, đồng thời bổ sung thêm một nguy cơ nữa là phân hoá giàu – nghèo ngày càng lớn, dẫn đến nguy cơ gây mất ổn định xã hội. Cần bổ sung bài học chống quan liêu, tham nhũng, thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên, bài học về công tác cán bộ; về giữ vững ổn định chính trị, thực hiện dân chủ, v.v.. Đoàn Chủ tịch xin có ý kiến như sau: - Trong nhiệm kỳ Trung ương khoá VIII (1996 - 2000), do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội ở Đông Nam Á và Đông Á (1997 - 1999), nền kinh tế nước ta suy giảm, chỉ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7%/năm. Đến nhiệm kỳ Trung ương khoá IX, tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001 - 2005) tăng bình quân 7,51%/năm. Năm 2005, mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, giá xăng dầu thế giới biến động lớn, nền kinh tế nước ta vẫn có sự khởi sắc mới: tốc độ tăng trưởng là 8,4%/năm, đạt mức Quốc hội đề ra; tổng GDP ước đạt 838.000 tỉ đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 10 triệu đồng (khoản 640 USD). Dư luận quốc tê cho rằng, mức tăng trưởng như vậy là khá cao trong khu vực. Có tổ chức quốc tế đánh giá mức tăng trưởng của ta là “ngoạn mục”. Đặc biệt, Liên hợp quốc nhận xét Việt Nam đã đạt sớm trước 10 năm mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong việc thực hiện “Mục tiêu Thiên niên kỷ” do Liên hợp quốc đề ra. Cuối năm 2005, tỉ lệ hộ nghèo ở nước ta còn 7% (theo chuẩn Việt Nam cho giai đoạn 2001 - 2005), kế hoạch là 10%. Vì vậy, Báo cáo chính trị viết “nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện” là phù hợp. - Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo chính thức được tính từ Đại hội VI (năm1986), đến nay (năm 2006) vừa tròn 20 năm. Sau 20 năm, chúng ta có điều kiện nhìn lại đầy đủ hơn, toàn diện hơn quá trình đổi mới với tất cả những thành tựu và hạn chế. Vì vây, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã quyết định tiến hành tổng kết 20 năm đổi mới để rút ra những bài học kinh nghiệm, lý giải, kết luận một số vấn đề lý luận – thực tiễn nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Báo cáo tổng kết 20 năm đổi mới đã cung cấp luận cứ khoa học cho việc soạn thảo các văn kiện Đại hội X của Đảng. Phần tổng kết, đánh giá 20 năm đổi mới đã được Ban Chấp hành Trung ương khoá IX thông qua và công bố rộng rãi. Thực tế cho thấy, 20 năm đổi mới đã làm thay đổi bộ mặt đất nước và cải thiện rõ rệt đời sống nhân dân. Điều đó, mỗi chúng ta, mỗi người dân, mỗi gia đình Việt Nam đều cảm nhận được một cách sâu sắc. Dư luận thế giới thừa nhận và đánh giá cao thành tựu đổi mới của Việt Nam. Điều rất quan trọng là sau 20 năm đổi mới, Đảng ta đã có sự nhận thức đúng hơn, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội trên một loạt vấn đề, đồng thời vận dụng sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Tư duy lý luận của Đảng có bước tiến mới. Đến nay, mặc dù còn không ít vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, nhưng qua 20 năm đổi mới, Đảng ta đã bước đầu hình thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm cơ sở khoa học cho đường lối của Đảng. Vì vậy, Đoàn Chủ tịch xin kiến nghị: Đại hội cho khẳng định: việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX “đã đạt những thành tựu rất quan trọng”. Công cuộc đổi mới ở nước ta “đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử” (Ban Chấp hành Trung ương khoá IX biểu quyết với 93,6% tán thành). 3. Về các “nguy cơ” Một số ý kiến đề nghị cần nêu lại “bốn nguy cơ” mà Đại hội IX của Đảng đã nêu, vì các nguy cơ này hiện nay vẫn còn tồn tại và có mặt phát triển rất đáng lo ngại. Có ý kiến cho rằng, tham nhũng không còn là một nguy cơ nữa mà đã là một thực tế, một quốc nạn; tụt hậu xa về kinh tế cũng không phải là một nguy cơ, mà là một thực tế, trong Đảng ta không có “nguy cơ chệch hướng”, nêu lên nguy cơ đó làm kìm hãm sự năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên, gây tâm lý rụt rè, ngần ngại trong hoạt động thực tiễn vì sợ “chệch hướng”. Đoàn Chủ tịch nhận thấy: Các Đại hội gần đây của Đảng nêu “bốn nguy cơ” là hàm ý chỉ ra những thách thức, những vấn đề nếu không được giải quyết tốt thì có thể đe doạ sự sống còn của chế độ; và đó là thực tế khách quan. Đến nay những nguy  cơ đó vẫn tồn tại, thậm chí có một số mặt gay gắt hơn. Nguy cơ “chệch hướng xã hội chủ nghĩa” là có thật, chúng ta không được mơ hồ, mất cảnh giác. Tuy nhiên, để tránh gây tranh cãi không cần thiết về thế nào là nguy cơ, có mấy nguy cơ, Báo cáo chính trị không dùng cụm từ “bốn nguy cơ” mà nói thẳng nội hàm của các nguy cơ, các thách thức đối với nhân dân ta như sau: “Nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, gắn với tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí là rất nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”. Đoàn Chủ tịch xin kiến nghị: Đại hội cho giữ cách diễn đạt về các thách thức như trong Báo cáo chính trị. 4. Về chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 Đa số ý kiến đồng ý chỉ tiêu nêu trong báo cáo, cho là phù hợp, có cơ sở khoa học và có tính khả thi, đồng thời cũng thể hiện được quyết tâm phấn đấu cao. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng không nên nêu tới 3 mức (7,5%, 8% và trên 8%/năm). Có ý kiến cho rằng, mức tăng trưởng 7,5 – 8% là thấp, không tích cực, không thu hẹp được khoảng cách với các nước trong khu vực, thực tế 5 năm qua (2001 - 2005) chúng ta đã đạt 7,5%/năm, có năm đạt trên 8%; do đó trong 5 năm tới phải đạt 8 – 8,5%/năm. Có ý kiến đề nghị phải đạt 9 – 10%/năm trở lên. Một số ý kiến đề nghị GDP năm 2010 theo giá so sánh phải gấp 2,5 lần năm 2000 (thay cho 2,1 lần trong dự thảo). Đoàn Chủ tịch xin có ý kiến như sau: Chỉ tiêu tăng trưởng GDP trong 5 năm tới nêu trong Báo cáo là chỉ tiêu định hướng  và đã được tính toán, cân nhắc kỹ về các yếu tố, cân đối các nguồn lực, vừa với tinh thần rất tích cực phấn đấu cao, vừa bảo đảm tính khả thi, vững chắc; vừa đáp ứng được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa phải bảo đảm thực hiện các mục tiêu về phát triển văn hoá - xã hội, bảo vệ mội trường, phát triển bền vững; tạo điều kiện cho sự phát triển trong thời kỳ trước mắt và cả cho giai đoạn tiếp theo. Cách nêu như vậy cũng là không chốt cứng mà có độ linh hoạt cần thiết, vì bên cạnh các yếu tố nỗ lực chủ quan còn có những biến động khách quan khó lường như biến động giá cả và thị trường thế giới, cũng như điều kiện thời tiết bất lợi và dịch bệnh lớn có thể xảy ra đối với nước ta... Nếu chúng ta đạt được tốc độ tăng trưởng GDP ở mức 7,5 – 8% và phấn đấu đạt  trên 8%/năm đi đôi với việc nâng cao chất lượng phát triển kinh tế – xã hội thì sẽ là thành tựu rất quan trọng. Vì vậy, Đoàn Chủ tịch xin kiến nghị: Đại hội cho giữ chỉ tiêu tăng trưởng GDP là “7,5 – 8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm” (Ban Chấp hành Trung ương khoá IX biểu quyết với 84,34% tán thành). 5. Về vấn đề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Đa số ý kiến đồng tình với nội dung của phần này. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, nội hàm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” chưa rõ, thực tế nhiều người chỉ nói “kinh tế thị trường”. Có ý kiến đề nghị làm rõ hơn nội hàm của “định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường”. Đoàn Chủ tịch có ý kiến như sau: Nền kinh tế thị trường tồn tại trong nhiều chế độ khác nhau và việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở một nước trình độ kinh tế còn thấp kém như nước ta thì việc phát triển kinh tế thị trường là một yêu cầu khách quan. Kinh tế thị trường là một phương thức phát triển sức sản xuất để đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng nền kinh tế thị trường mà chúng ta phát triển khác về bản chất so với nền kinh tế thị trường ở nhiều nước khác. Từ tổng kết 20 năm đổi mới, chúng ta nhận thấy, chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng đắn, bước đầu mang lại những kết quả rõ rệt; đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề rất mới vần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết. Chúng ta hiểu rằng, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa: nền kinh tế đó phải tuân theo các nguyên tắc và quy luật phổ biến của nền kinh tế thị trường, đồng thời phải mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa và tạo ra chất lượng mới của sự phát triển. Đó là nền kinh tế được xây dựng ở một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhằm mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội. Đến nay, có thể sơ bộ nên lên những nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là: - Nhằm mục tiêu thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. - Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. - Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; hình thành cấu trúc kinh tế – xã hội phát triển ổn định, bền vững; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. - Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việc đưa ra mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đột phá về lý luận – thực tiễn có tính sáng tạo của Đảng ta. Chúng ta không lựa chọn mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nhưng nền kinh tế
Luận văn liên quan