Báo cáo Công tác quản lý chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn huyện Trà Ôn năm 2009 tại phòng tại chính và kế hoạch huyện Trà Ôn

- Lịch sử hình thành và phát triển NSNN ở các nước trên thế giới cho thấy NSNN ra đời, phát triển cùng với kinh tế hàng hóa và mức độ hoàn thiện của Nhà nước phạm trù Ngân sách cũng phát triển tương ứng. Một nền kinh tế nặng về hiện vật sẽ được phản ánh vào một Ngân sách với nhiều chỉ tiêu hiện vật thông qua các khoản thu chi Ngân sách dưới hình thức hiện vật. Một nền kinh tế đơn nhất sở hữu, giá trị và giá cả hàng hóa không được đánh giá chung, dịch vụ không được coi trọng sẽ cho ra một Ngân sách méo mó, sai lệch bởi các nguồn thu không đúng về bản chất và tên gọi cùng với những khoản chi bao cấp, bao biện cho toàn bộ nền kinh tế xã hội. Một nền kinh tế hàng hóa phát triển, nhiều thành phần sẽ có một NSNN với nội dung, kết cấu hoàn toàn khác. - Chịu sự quyết định bởi mỗi phương thức sản xuất và tác động của các quy luật kinh tế khách quan, nội dung và tính chất của NSNN ứng với mỗi chế độ xã hội cũng khác nhau. Đối với NSNN các biểu hiện của nó cũng rất đa dạng, phong phú nhưng cũng rất rời rạc. - Các hoạt đông thu, chi NSNN luôn gắn liền với các dòng tiền thu vào (chính là quá trình tạo lập) hoặc xuất ra khỏi (quá trình sử dụng) quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước mà cụ thể là quỹ NSNN. Việc tạo lập và sữ dụng quỹ NSNN, một mặt phản ánh mức độ tiền tệ hóa và luật pháp hóa các hoạt động của Nhà nước bởi dự toán thu, chi NSNN dược các cấp có thẩm quyền thảo luận, quyết định và phê chuẩn trong khuôn khổ pháp luật. Mặt khác, từng hạng mục của NSNN cụ thể hóa các chính sách, các lựa chọn kinh tế, chính trị của Nhà nước. - Bằng quyền lực chính trị và quyền lực chủ sở hữh, qua các việc ban hành luật, chủ động tăng hoặc giảm quy mô, điều chỉnh kết cấu, thời gian thu, chi, mức độ bội chi và biện pháp bù đắp bội chi Ngân sách (nếu có) mà Nhà nước tác động vào nền kinh tế, thúc đẩy hoặc kiềm hãm sự phát triển kinh tế, duy trì sự công bằng hoặc bất công trong xa hội, bảo vệ lợi ích của các tầng lớp dân cư. Việc bố trí NSNN thể hiện rất rõ nét các ưu tiên chiến lược, các quan điểm cũng như phương thức Nhà nước giải quyết một hoặc nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội do thực tế đặt ra. Qúa trình tạo lập và sử dụng NSNN là sự thể hiện ý chí chủ quan của Nhà nước, thông qua đó bản chất của NSNN được định hình. - Mặc dù, các biểu hiện của NSNN rất đa dạng và phong phú nhưng về thực chất chúng đều phản ánh các nội dung cơ bản như sau: + NSNN hoạt động trong lĩnh vực phân phối các nguồn tài chính và vì vậy nó thể hiện các mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và xã hội. + Quyền lực NSNN thuộc về Nhà nước, do vậy mọi khoản thu, chi tài chính đều do Nhà nước quyết định và nhằm mục đích phục vụ yêu cầu thực hiện các chức năng của Nhà nước. Những nội dung trên đây cũng chính là những mặc, những mối quan hệ quyết định sự phát sinh và phát triển của NSNN. Do đó, có thể đi đến kết luận về bản chất của NSNN như sau: “NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng của Nhà nước”.

doc65 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2657 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Công tác quản lý chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn huyện Trà Ôn năm 2009 tại phòng tại chính và kế hoạch huyện Trà Ôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: LÝ THUYẾT TỔNG QUAN ((( I) TỔNG QUAN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC (NSNN) VÀ TỔ CHỨC HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC: 1) Khái quát về NSNN: 1.1) Khái niệm NSNN: - Theo từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô (1971) cho rằng: “NSNN là bảng kê các khoản thu và chi bằng tiền của Nhà nước trong một giai đoạn nhất định; là mọi kế hoạch thu chi bằng tiền của bất kỳ xí nghiệp, cơ quan hoặc cá nhân nào trong một giai đoạn nhất định”. - Theo từ điển Bách khoa toàn thư về kinh tế Pháp định nghĩa: “NSNN là văn kiện được nghị viện hoặc hội đồng thảo luận và phê chuẩn mà trong đó các nghiệp vụ tài chính của một tổ chức công ( nhà nước, chính quyền, địa phương, đơn vị công,…) hoặc tư ( doanh nghiệp, hiệp hội,…) được dự kiến và cho phép”. - Theo từ điển kinh tế thị trường của Trung Quốc định nghĩa: “ NSNN là kế hoạch thu, chi tài chính hàng năm của Nhà nước được xét duyệt theo trình tự pháp định”. - Theo Điều 1 Luật NSNN được Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI, kỳ hôp thứ hai ( từ ngày 12 tháng 11 đến ngày 16 tháng 12 năm 2002) thông qua, có hiệu lực thi hành kể từ năm ngân sách 2004, thể hiện NSNN như sau: “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. 1.2) Khái niệm Ngân sách Địa Phương ( NSĐP): - Ngân sách địa phương là tổng hợp dự toán của các ngành trực thuộc Ngân sách Tỉnh, thành phố, Ngân sách Huyện và ngân sách Xã. - Ngân sách huyện được hợp thành bởi các kế hoạch tài chính và các dự toán kinh phí của các ngành, các cơ quan trực thuộc Huyện. 2) Bản chất của NSNN: - Lịch sử hình thành và phát triển NSNN ở các nước trên thế giới cho thấy NSNN ra đời, phát triển cùng với kinh tế hàng hóa và mức độ hoàn thiện của Nhà nước phạm trù Ngân sách cũng phát triển tương ứng. Một nền kinh tế nặng về hiện vật sẽ được phản ánh vào một Ngân sách với nhiều chỉ tiêu hiện vật thông qua các khoản thu chi Ngân sách dưới hình thức hiện vật. Một nền kinh tế đơn nhất sở hữu, giá trị và giá cả hàng hóa không được đánh giá chung, dịch vụ không được coi trọng sẽ cho ra một Ngân sách méo mó, sai lệch bởi các nguồn thu không đúng về bản chất và tên gọi cùng với những khoản chi bao cấp, bao biện cho toàn bộ nền kinh tế xã hội. Một nền kinh tế hàng hóa phát triển, nhiều thành phần sẽ có một NSNN với nội dung, kết cấu hoàn toàn khác. - Chịu sự quyết định bởi mỗi phương thức sản xuất và tác động của các quy luật kinh tế khách quan, nội dung và tính chất của NSNN ứng với mỗi chế độ xã hội cũng khác nhau. Đối với NSNN các biểu hiện của nó cũng rất đa dạng, phong phú nhưng cũng rất rời rạc. - Các hoạt đông thu, chi NSNN luôn gắn liền với các dòng tiền thu vào (chính là quá trình tạo lập) hoặc xuất ra khỏi (quá trình sử dụng) quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước mà cụ thể là quỹ NSNN. Việc tạo lập và sữ dụng quỹ NSNN, một mặt phản ánh mức độ tiền tệ hóa và luật pháp hóa các hoạt động của Nhà nước bởi dự toán thu, chi NSNN dược các cấp có thẩm quyền thảo luận, quyết định và phê chuẩn trong khuôn khổ pháp luật. Mặt khác, từng hạng mục của NSNN cụ thể hóa các chính sách, các lựa chọn kinh tế, chính trị của Nhà nước. - Bằng quyền lực chính trị và quyền lực chủ sở hữh, qua các việc ban hành luật, chủ động tăng hoặc giảm quy mô, điều chỉnh kết cấu, thời gian thu, chi, mức độ bội chi và biện pháp bù đắp bội chi Ngân sách (nếu có) mà Nhà nước tác động vào nền kinh tế, thúc đẩy hoặc kiềm hãm sự phát triển kinh tế, duy trì sự công bằng hoặc bất công trong xa hội, bảo vệ lợi ích của các tầng lớp dân cư. Việc bố trí NSNN thể hiện rất rõ nét các ưu tiên chiến lược, các quan điểm cũng như phương thức Nhà nước giải quyết một hoặc nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội do thực tế đặt ra. Qúa trình tạo lập và sử dụng NSNN là sự thể hiện ý chí chủ quan của Nhà nước, thông qua đó bản chất của NSNN được định hình. - Mặc dù, các biểu hiện của NSNN rất đa dạng và phong phú nhưng về thực chất chúng đều phản ánh các nội dung cơ bản như sau: + NSNN hoạt động trong lĩnh vực phân phối các nguồn tài chính và vì vậy nó thể hiện các mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và xã hội. + Quyền lực NSNN thuộc về Nhà nước, do vậy mọi khoản thu, chi tài chính đều do Nhà nước quyết định và nhằm mục đích phục vụ yêu cầu thực hiện các chức năng của Nhà nước. Những nội dung trên đây cũng chính là những mặc, những mối quan hệ quyết định sự phát sinh và phát triển của NSNN. Do đó, có thể đi đến kết luận về bản chất của NSNN như sau: “NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng của Nhà nước”. 3) Vai trò của NSNN: 3.1) Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường: 3.1.1) NSNN – Công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước: - Đây là vai trò lịch sữ của NSNN, mà trong bất kì cơ chế nào và trong tời đại nào NSNN cũng phải thực hiện, vai trò của NSNN được xác định trên cơ sở bản chất kinh tế của NSNN. Sự hoạt động của Nhà nước trong các lĩnh vực chính trị kinh tế, xã hội luôn đòi hỏi phải có nguồn tài chính để chi tiêu cho những mục đích nhất định. Các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước được thoải mãn từ các nguồn thu bằng hình thức thuế và thu ngoài thuế. Việc huy động vào NSNN để đảm bảo các yêu cầu chi tiêu cần thiết của Nhà nước cần chú ý ba vấn đề sau: - Mức động viên vào NSNN đối với các thành viên trong xã hội là thuế và các khoản thu khác phải hợp lý. Mức động viên cao hay thấp đều có những tác động tích cực và tiêu cực. - Các công cụ kinh tế được sử dụng tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện các khoản chi tiêu của NSNN. - Tỷ lệ đông viên vào NSNN đối với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vừa đảm bảo hợp lý với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, vùa đảm bảo cho đơn vị cơ sở có điều kiện tích tụ vốn để tái sản xuất mở rộng. 3.1.2) NSNN – Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội của Nhà nước: - Trước hết là điều tiế thị trường, bình ổn giá cả vả chống lạm phát. Thị trường đôi khi phát ra những tính hiệu sai lệch do nó dể dàng đưa đến tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu, giữa sản xuất và tiêu dùng gây nên rối loạn thị trường, khủng hoảng kinh tế. Đồng thời hiện tượng lạm phát, phá sản, thất nghiệp dường như là căn bệnh đặc trưng vốn có của nền kinh tế thị trường. Do đó, sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Thông qua công cụ thuế và chính sách chi Ngân sách, Nhà nước sẽ có sự điều tiết thị trường, điều chỉnh giá một cách chủ động. Cụ thể ở thị trường hàng hóa, hàng háo bị chi phối bởi quy luật cung – cầu, một loại hàng háo nào đó mà cung lớn hơn cầu thì giá cả sẽ giảm xuống đột ngột, sản xuất bị thiệt hại, nền kinh tế trở nên mất cân đối. Vì thế để đảm bảo quyền lợi của người sản xuất, tạo sự cân đối của nền kinh tế thì Nhà nước phải sử dụng các biện pháp thu mua, trợ gía,… Mặc khác trong lĩnh vực thu – chi, NSNN phải là công cụ khống chế và đẩy lùi lạm phát bằng cách thực hiện cân đối Ngân sách; khai thác các nguồn vốn vay trong và ngoài nước với hình thức triển trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình; thu hút viện trợ nước ngoài;… - Khi đã bình ổn thị trường giá cả NSNN lại là công cụ điều chỉnh thu nhập đảm bảo công bằng xã hội qua việc sử dụng thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp để điều tiết người có thu nhập cao, phân phối lại các đối tượng có thu nhập thấp thông qua các chính sách xã hội nhằm đảm bảo mục tiêu công bằng bình đẳng. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng sử dụng thuế gián thu nhằm góp phần hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước. - Cuối cùng, NSNN có vai trò là công cụ để định hướng phát triển kinh tế, bằng nguồn thu huy động của mình Nhà nước sẽ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như: cầu, đường, bến cảng,… Đây là biện pháp kích hoạt cầu có hiệu quả, tạo mơi trường thuận lợp để các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề chủ đạo, then chốt tạo công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết mục tiêu lao động thừa trong nông thôn. Đây cũng là một trong những biện pháp cơ bản chống độc quyền và giữ thị trường không rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Tóm lại: Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, đó cũng là công cụ tài chính giúp Nhà nước điều hành nền kinh tế vĩ mô, cân đối nguồn thu tài chính của Nhà nước. 3.2) Vai trò của NSNN trong hệ thống tài chính: - Căn cứ vào đặc điểm hình thành, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính cùng với phạm vi tác động và chức năng hoạt động, các chủ thể trong nền kinh tế thị trường được chia thành năm khu vực thể chế và từ đó hình thành năm khâu của hệ thống tài chính, đó là: (1) Khu vực Nhà nước, có tài chính Nhà nước. (2) Khu vực sản xuất, kinh doanh các sản phẩm hàng hóa , dịch vụ phi tài chính có tài chính của khu vực phi tái chính (hay còn gọi tắc là tài chính doanh nghiệp). (3) Khu vực sản xuất, kinh doanh các dịch vụ tài chính, có tài chính của khu vực tài chính ( hay còn gọi tắc là tài chính của các tài chính trung gian). (4) Khu vực sản xuất và tiêu dùng của các hộ gia đình, có tài chính của các hộ gia đình. (5) Khu vực hoạt động của các tổ chức xã hội không vì mục đích kinh doanh, được gọi là khu vực vô vị lợi, có tài chính của khu vực vô vị lợi ( hay tài chính của các tổ chức xã hội), chẳng hạn như: tổ chức từ thiện, tổ chức bảo thọ,… - Tài chính Nhà nước bao gồm Nhà nước, dự trữ Nhà nước, tín dụng Nhà nước, ngân hàng Nhà nước, tài chính các cơ quan hành chính Nhà nước, tài chính các đơn vị sự nghiệp Nhà nước, tài chính doanh nghiệp Nhà nước, các quỹ Nhà nước, trong đó NSNN là hạt nhân, là thành phần chủ yếu. NSNN đóng vai trò chủ đạo và tổ chức các hoạt động của hệ thống tài chính. Điều này được chứng tỏ bằng sự chi phối, tác động và phối hợp hoạt động của nó với các khâu khác của hệ thống tài chính. - Trong nền kinh tế thị trường, NSNN không chỉ đóng vai trò huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu cho bộ máy Nhà nước; cho an ninh quốc phòng và các mục đích khác nhằm củng cố quyền lực Nhà nước, mà nó còn có vai trò to lớn trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội. Đó là vai trò định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, ổn định giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội,… Để thực hiện được vai trò này NSNN cần phải có các nguồn vốn huy động từ các khu vực kinh tế, từ dân cư và từ các nguồn tài chính ngoài nước. Từ đó, thực hiện các khoản chi đầu tư kinh tế và ngoài kinh tế. 4) Tổ chức hệ thống NSNN: 4.1) Khái niễm hệ thống NSNN: - Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp Ngân sách gắn bó hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp Ngân sách và được tổ chức theo một cơ cấu nhất định. 4.2) Căn cứ tổ chức hệ thống NSNN: - Tổ chức hệ thống NSNN dựa vào những căn cứ sau đây: + Hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước. + Chế độ phân cấp quản lý kinh tế tài chính. 4.3) Nguyên tắc tổ chức hệ thống NSNN: 4.3.1) Nguyên tắc thống nhất: - Phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể; hệ thống thu, chi của các cấp Ngân sách ban hành theo một chế độ thống nhất. - Các cấp Ngân sách đều áp dụng chung một chế độ về kế hoạch hóa và quản lý NSNN, đồng thời nhiệm vụ chi trong kỳ kế hoạch phải đảm bảo (lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán NSNN). - Thực hiện cơ chế bổ sung từ Ngân sách cấp trên cho Ngân sách cấp dưới để đảm bảo tính công bằng và yêu cầu phát triể cân đối giữa các vùng. - Ngân sách các cấp không được dùng Ngân sách của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp khác. 4.3.2) Nguyên tắc tập trung dân chủ: - Để quản lý và điều hành Ngân sách ở tầm vĩ mô, Nhà nước tập trung một số nguồn thu lớp, quan trọng vào Ngân sách cấp chính quyền Trung ương nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu, cân đối Ngân sách trên phạm vi toàn quốc. - Để các cấp chính quyền chủ động khai thác tốt nguồn thu và nhu cầu chi tiêu kịp thời, Luật Ngân sách quy định mỗi cấp chính quyền có một cấp Ngân sách riêng và được sử dụng vào nhu cầu chi tiêu cho bộ máy dầu tư phát triển kinh tế địa phương đó. Việc xây dựng dự toán, xét duyệt dự toán và quyết toán Ngân sách mỗi cấp đều tập trung vào chính quyền cấp tương đương, được công khai dân chủ ở mỗi cấp Ngân sách cho nhân dân biết để nhân dân tham gia xây dựng Ngân sách, biểu hiện rõ nhất là các nguồn thu huy động từ nhân dân đóng góp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. 4.4) Hệ thống NSNN: ( SƠ ĐỒ HỆ THỐNG NSNN:  4.4.1) Ngân sách trung ương (NSTW): 4.4.1.1) Khái niệm: - NSTW gồm: các kế hoạch tài chính, các dự toán kinh phí của các Bộ, các Tổng cục và các cơ quan trực thuộc Chính phủ hợp thành. NSTW quản lý theo ngành kinh tế. 4.4.1.2) Vai trò: - Trong hệ thống NSNN, NSTW là khâu trung tâm và giữ vai trò chủ đạo. Tác động có tính tổ chức và xác định phương hướng hoạt động đối với các cấp Ngân sách trong toàn bộ hệ thống NSNN. - NSTW tập trung phần lớn các nguồn thu chủ yếu và đảm bảo các nhu cầu chi để thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội có tính chất toàn quốc. - Thường xuyên điều hào vốn cho các cấp NSĐP nhằm tạo điều kiện cho các cấp hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội thống nhất của cả nước. 4.4.2) Ngân sách địa phương (NSĐP): 4.4.2.1) Khái niệm: - NSĐP là tổng hợp dự toán của các ngành trực thuộc Tỉnh, Thành phố, ngân sách Huyện và ngân sách Xã. NSĐP quản lý theo vùng lãnh thổ. 4.4.2.2) Vai trò: - Là công cụ tài chính của các cấp chính quyền địa phương, phục vụ việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của các cấp chính quyền địa phương đã được phân cấp quản lý. Bảo đảm các nguồn vốn để thỏa mãn nhu cầu phát triển kinh tế và các hoạt động văn hóa – xã hội của địa phương. - Đảm bảo huy động, quản lý và giám sát một phần vốn của NSTW. - Điều hào vốn về NSTW trong những trường hợp cần thiết để cân đối hệ thống NSNN. II) KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA CHI NSNN: Khái niệm chi NSNN: - Chi NSNN thể hiện các quan hệ tiền tệ hình thành trong quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm trang trải cho các chi phí bộ máy nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội mà Nhà nước đảm nhận theo những nguyên tắc nhất định. - Chi NSNN chủ yếu dựa trên những nguồn thu nhập lấy từ hoạt động sản xuất. Sự vận động của nó gắn liền với việc thực hiện các kế hoạch kinh tế - xã hội và quy mô của chi Ngân sách dựa vào mức tăng thu nhập quốc dân cũng như kết quả của việc phân chia nó thành quỹ tiêu dùng và quỹ tích lũy xã hội. - Qúa trình phân phối quỹ NSNN là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng. Chẳng hạn như việc cấp phát vốn từ NSNN cho các đơn vị dự toán, cho các cấp ngân sách trong hệ thống ngân sách hoặc cho các quỹ tài chính khác. - Qúa trình sử dụng là quá trình trực tiếp sử dụng khoản tiền cấp phát từ NSNN cho những công việc của nhà nước đã định sẵn không trãi qua việc hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng. Đặc điểm chi NSNN: Mỗi chế độ xã hội, mỗi giai đoạn lịch sử chi NSNN có những nội dung, cơ cấu khác nhau nhưng nhìn chung có những đặc điểm chung như sau: - Chi NSNN luôn gắn chặt với những nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội mà Nhà nước đảm đương trước mỗi quốc gia. Nhà nước càng đảm đương nhiều nhiệm vụ thì mức độ, phạm vi của chi NSNN càng được mở rộng và ngược lại. - Chi NSNN xét về mức độ, nội dung, cơ cấu được quyết định bởi cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội quyết định. Do đó, chi NSNN mang tính pháp lý cao làm cho NSNN trở thành công cụ có hiệu lực trong quá trình điều hành và quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước. - Tính hiệu quả của các khoản chi NSNN bao giờ cũng được xem xét ở tầm vĩ mô về chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Vì vậy, khi phân tích đánh giá hiệu quả của chi NSNN thường rất phức tạp, đòi hỏi phải có quan điểm toàn diện, nghiên cứu ảnh hưởng của nó trên tổng thể các mối quan hệ. - Chi NSNN xét về tính chất đó là khoản chi không hoàn trả trực tiếp, đó là hình thức cấp phát trực tiếp của Nhà nước vào các lĩnh vực của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, xuất phát từ yêu cầu thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. - Các khoản chi NSNN được gắn chặt vời sự vận động của phạm trù giá trị khác như: Tiền lương, giá cả, lãi suất, lỷ giá hối đoái… Mối quan hệ giữa chi NSNN với các chính sách tiền tệ, chính sách tài chính có ý nghĩa cực kỳ to lớn trong việc thực hiện các mục tiêu của kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng, công ăn việc làm, giá cả,… 3) Vai trò chi NSNN: 3.1) Chi NSNN là điều kiện quyết định đến việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước: - Sự hoạt động của Nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội luôn luôn đòi hỏi các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. - Trong cơ chế thị trường ở Việt Nam, Nhà nước có vai trò quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, xã hội và Nhà nước đã sử dụng các công cụ kinh tế tài chính, trong đó có chi NSNN biểu hiện: + Thông qua chi NSNN để kích thích sự tăng trưởng kinh tế điều tiết thị trường, giá cả, chống lạm phát, điều tiết thu nhập của dân cư góp phần thực hiện công bằng xã hội. 3.2) Chi NSNN là công cụ quan trọng để thực hiện vai trò của Nhà nước trong quản lý sản xuất kinh doanh: - Để duy trì sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô và thúc đẩy phát triển kinh tế, Nhà nước sử dụng các công cụ bộ phận của NSNN là chi đầu tư của NSNN để hướng dẫn, kích thích và tạo sức ép đối với các chủ thể trong hoạt động kinh tế và chống độc quyền. - Thông qua chi NSNN vào cơ sở kinh ết hạ tầng vào các ngành kinh tế trọng điểm và mũi nhọn. - Các khoản chi đầu tư của NSNN có tác dụng định hướng hình thành cơ cấu kinh tế ở nước ta là động lực thúc đẩy sự ra đời của các cơ sở kinh tế mới. - NSNN đảm bảo cung cấp kinh phí để Nhà nước đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp. - Như vậy bằng chính sách đầu tư đúng đắn, NSNN đã có tác động đến việc hình thành cơ cấu kinh tế mới, đến chống độc quyền, đến việc tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh. - Mặc khác trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí ngân sách cũng có thể được sử dụng để hổ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị chuyển đổi sang cơ chế mới hợp lý. III) CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI NSNN: 1) Nguồn chi NSNN: 1.1) Nội dung chi NSNN: - Chi NSNN bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy Nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. 1.2) Cơ cấu chi NSNN ở Việt Nam: * Theo pháp luật về Ngân sách Nhà nước hiện hành ở nước ta, chi NSNN bao gồm: - Chi đầu tư phát triển về: + Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn; + Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các Doanh nghiệp Nhà nước; các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật; + Chi bổ sung dự trữ nhà nước; + Chi đầu tư phát triển thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án Nhà nước; + Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật. - Chi thường xuyên về: + Các hoạt động sự nghiệp Giáo dục đào tạo, y tế, thể dục thể thao, xã hội, văn hóa thông tin văn học nghệ thuật, sự nghiệp khoa học công nghệ và môi trường, các sự nghiệp xã hội khác; + Các hoạt động sự nghiệp kinh tế; + Quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội; +Hoạt động của các cơ quan Nhà nước; + Hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam; + Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cụ chiến binh Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam; + Trợ giá theo chính sách của
Luận văn liên quan