Cây có múi là một chủng loại cây ăn trái quan trọng tại Việt Nam nhưng hiện
trạng sản xuất và sản lượng cây cómúi đang bị trở ngại bởi một loạt các đối tượng
dịch hại quan trọng. Việc quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) được thừa nhận như một
phương pháp kiểm soát dịch hại có hiệu quả và chấp nhận được. Việt Nam có một
Chương Trình Quốc Gia về IPM phát triển rất tốt với sự tham gia của các nông dân
được huấn luyện và nghiên cứu qua các lớp huấn luyện nông dân (FFS). Chương
trình này đã huấn luyện trên 500.000 nông dân về các kỹthuật IPM trên lúa, rau,
bông vải, trà, đậu nành, đậu phọng, và khoai lang. Dự án này đã là sự khởi đầu cho
việc mở các lớp huấn luyện nông dân trồng cây có múi với 98 huấn luyện viên
tham dự các lớp huấn luyện chủ lực trong các tháng 4 và 5 của năm 2005 và sau đó
những huấn luyện viên này đã hướng dẫn 24 lớp FFS của 12 tỉnh Đồng Bằng Sông
Cửu Long và các tỉnh Duyên Hải miền Trung của Việt Nam. Các nông dân đã tham
dự các lớp FFS hàng tuần suốt trong 21 tuần lễ và cũng đã tham gia trong việc
giảng dạy thông qua các thí nghiệm trình diễn. Việc tài trợ từ bên ngoài ngân sách
dự án đã cho phép tổ chức được các chuyến tham quan cho nông dân ở các tỉnh
Đồng Bằng Sông Cửu Long qua lại các tỉnh lân cận để trao đổi và học tập kinh
nghiệm lẫn nhau, cũng như tổ chức các cuộc hội thảo duyệt xét lại kết quả của dự
án tại 3 địa điểm với sự tham dự của các đại biểu của cả 12 tỉnh có liên quan.
Những thông tin phản hồi của những người tham dự sẽ giúp điều chỉnh các chương
trình huấn luyện cho năm 2006 để tăng tính thích nghi và hiệu quả.
16 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2387 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Đánh giá hiệu quả của các lớp huấn luyện nông dân FFS trong việc quản lý dịch hại tổng hợp IPM trên cây có múi tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Chính Phủ Úc
Tổ chức tài trợ AusAID
BÁO CÁO TIẾN ĐỘ
036/04VIE: Đánh giá hiệu quả của các lớp huấn
luyện nông dân FFS trong việc quản lý dịch hại tổng
hợp IPM trên cây có múi tại Việt Nam
MS4: Báo cáo 6 tháng lần thứ hai
1
1. Tóm lược dự án:
Cây có múi là một chủng loại cây ăn trái quan trọng tại Việt Nam nhưng hiện
trạng sản xuất và sản lượng cây có múi đang bị trở ngại bởi một loạt các đối tượng
dịch hạiù quan trọng. Việc quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) được thừa nhận như một
phương pháp kiểm soát dịch hại có hiệu quả và chấp nhận được. Việt Nam có một
Chương Trình Quốc Gia về IPM phát triển rất tốt với sự tham gia của các nông dân
được huấn luyện và nghiên cứu qua các lớp huấn luyện nông dân (FFS). Chương
trình này đã huấn luyện trên 500.000 nông dân về các kỹ thuật IPM trên lúa, rau,
bông vải, trà, đậu nành, đậu phọng, và khoai lang. Dự án này đã là sự khởi đầu cho
việc mở các lớp huấn luyện nông dân trồng cây có múi với 98 huấn luyện viên
tham dự các lớp huấn luyện chủ lực trong các tháng 4 và 5 của năm 2005 và sau đó
những huấn luyện viên này đã hướng dẫn 24 lớp FFS của 12 tỉnh Đồng Bằng Sông
Cửu Long và các tỉnh Duyên Hải miền Trung của Việt Nam. Các nông dân đã tham
dự các lớp FFS hàng tuần suốt trong 21 tuần lễ và cũng đã tham gia trong việc
giảng dạy thông qua các thí nghiệm trình diễn. Việc tài trợ từ bên ngoài ngân sách
dự án đã cho phép tổ chức được các chuyến tham quan cho nông dân ở các tỉnh
Đồng Bằng Sông Cửu Long qua lại các tỉnh lân cận để trao đổi và học tập kinh
nghiệm lẫn nhau, cũng như tổ chức các cuộc hội thảo duyệt xét lại kết quả của dự
án tại 3 địa điểm với sự tham dự của các đại biểu của cả 12 tỉnh có liên quan.
Những thông tin phản hồi của những người tham dự sẽ giúp điều chỉnh các chương
trình huấn luyện cho năm 2006 để tăng tính thích nghi và hiệu quả.
2. Tóm lược liên quan đến việc quản lý và thực hiện kế hoạch
Việt Nam có một Chương Trình Quốc Gia IPM được phát triển rất tốt, đưa đến kết
quả là hơn 500.000 nông dân được huấn luyện về các kỹ thuật IPM đã được ứng
dụng trên lúa, rau, bông vải, trà, đậu nành, đậu phọng, và khoai lang. Trước dự án
này, không có chương trình huấn luyện IPM nào được tổ chức về quản lý cây cam
quýt, dù rằng đây là chủng loại trái cây quan trọng ở Việt Nam. Trong năm đầu của
dự án này, việc thực hiện kế hoạch đã rất hiệu quả là nhờ vào sự nổ lực cao của tất
cả các thành viên trong dự án, kết quả là đã đào tạo được 98 huấn luyện viên chủ
lực từ 10 nhà khoa học chủ chốt, và những huấn luyện viên này đã hướng dẫn thành
công 24 lớp FFS ở 12 Tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long và các tỉnh Duyên Hải miền
Trung của Việt Nam. FFS tổ chức tập huấn nông dân hàng tuần và kéo dài 21 tuần
lễ. Các huấn luyện viên đã lên một lịch hoạt động trong suốt chương trình huấn
luyện và những hoạt động này được huớng dẫn đồng bộ tại tất cả các FFS. Các thí
nghiệm trình diễn cũng đã được thực hiện tại 16 FFS. Một cuộc khảo sát trắc
nghiệm về kiến thức thực tiễn cơ bản của nông dân cũng đã được tiến hành tại 15
địa điểm và tất cả những nông dân mà tham gia trong các FFS đều được trắc
nghiệm bằng 52 câu hỏi trước và sau khi tham dự lớp huấn luyện. Các kết quả của
cuộc phỏng vấn nói trên gồm 727 người trước và 694 người sau khi tham dự các
FFS đang được phân tích. Tất cả các phần đã dự trù của khung dự án cho năm 2005
đã được hoàn tất. Hai đầu ra chính đã được dự trù trong khung dự án cũng đã hoàn
2
tất và chính điều này sẽ làm tăng tính thích ứng của dự án đối với cả huấn luyện
viên và nông dân trồng cây có múi một cách có ý nghĩa.
Những chuyến tham quan đã được tổ chức cho các nông dân ở các tỉnh lân cận nhau
qua lại để tham quan học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau được Tổ Chức Úc tài trợ và 3
cuộc hội thảo xem xét lại kết quả những công việc đã thực hiện được trong năm
qua do Công Ty BAYER Việt Nam và Tập đoàn dầu khoáng SK Hàn Quốc tài trợ
giúp cho ban tổ chức có được những phản hồi rất quan trọng về chương trình huấn
luyện trong năm 2005 từ các tham dự viên. Tại các cuộc hội thảo này, mọi người đã
thống nhất rằng chương trình huấn luyện cho năm 2006 phải được điều chỉnh để
làm tăng tính thích ứng và hiệu quả của việc huấn luyện. Các điều chỉnh này gồm
TOT phải được tổ chức sớm trong năm, tăng cường những bài thực hành hơn và FFS
bắt đầu sớm hơn nhưng kết thúc muộn hơn, thời gian mở những lớp học linh động
hơn trong suốt giai đoạn từ lúc cây ra hoa đến thu hoạch nhưng vẫn đảm bảo những
nội dung trong chương trình.
3. Giới thiệu và bối cảnh :
Cây có múi là một trong những chủng loại cây ăn trái chủ lực ở Việt Nam (Bộ NN
& PTNT, 2004) và sản xuất trái cây có múi là một nguồn thu nhập quan trọng của
nhiều nông dân Việt Nam. Tuy nhiên, năng suất và sản lượng trái cây có múi tại
Việt Nam lại khá thấp hơn so với ở Úc và những nước sản xuất cam quýt chủ lực
của thế giới như Braxin và Hoa Kỳ. Bộ Nông nghiệp & PTNT đã chỉ rõ rằng “Nhìn
chung, việc canh tác cây có múi chưa được phát triển lắm trong vài năm vừa qua,
chủ yếu là do bị phá hoại trầm trọng bởi những dịch hại đặc biệt là bệnh vàng lá
Greening (mà còn được gọi là Huanglongbing) và do đó các cuộc khảo sát về
những phương pháp kiểm soát các loại dịch bệnh, kết hợp với việc quản lý vườn
vây có múi và sử dụng những kỹ thuật tiến bộ và chuyên sâu là điều hết sức cần
thiết”.
Các mục tiêu của dự án này là hướng dẫn việc huấn luyện cho những huấn luyện
viên (Training Of Trainers). Đào tạo họ trở thành những huấn luyện viên chủ lực
trong việc huấn luyện IPM trên cây có múi cho nông dân, họ sẽ hướng dẫn những
lớp FFS tại địa phương của họ và qua đó có thể đánh giá được hiệu quả của mô
hình FFS trong việc gia tăng kiến thức cho người nông dân cũng như việc sử dụng
thuốc trừ sâu hợp lý trong canh tác. Những mục tiêu này sẽ góp phần giúp cho
người nông dân có những quyết định tốt hơn trong phạm vi khả năng của họ về việc
quản lý những loại dịch hại thông qua sự chấp nhận chiến lược quản lý dịch hại
tổng hợp IPM trên cây có múi tại Việt Nam. Một khi một mạng lưới những huấn
luyện viên chủ lực về IPM cây có múi được thiết lập và những huấn luyện viên này
thực chất đã có được những kinh nghiệm thực tiễn trong việc huấn luyện IPM cây
có múi qua ít nhất một mùa làm việc với các FFS, Việt Nam sẽ có khả năng nổi bật
đáng kể để phát triển các chương trình IPM trên cây có múi.
Những sản phẩm đầu ra từ dự án huấn luyện IPM được thể hiện trong những hệ
thống mùa vụ khác, bao gồm quyền quyết định của người nông dân nhờ vào kiến
thức về hệ sinh thái nông nghiệp được nâng cao; ý thức bảo vệ tính đa dạng sinh
3
học và bảo vệ môi trường nhờ vào việc giảm sử dụng thuốc trừ sâu đó là kết quả
của việc nâng cao kiến thức về nhận diện sâu bệnh cũng như là những biện pháp
quản lý sâu bệnh đạt hiệu quả; tăng cường an toàn thực phẩm thông qua việc gia
tăng sản lượng; và việc bảo vệ sức khỏe của cộng đồng nông dân và người tiêu
dùng trái cây nhờ vào việc giảm sử dụng thuốc trừ sâu trong việc sản xuất trái cây
Những phương pháp chính được chấp nhận trong dự án này là tham gia dựa trên
việc học hỏi và hành động dựa trên việc nghiên cứu. Mục tiêu của cả hai kỹ thuật
này là để thu hút trọn vẹn những người tham gia và để cho họ nhằm vào việc học
và nghiên cứu để đạt được những nhu cầu của chính họ.
4. Tiến độ thực hiện được cho đến nay:
1. Những điểm nổi bật trong việc thực hiện:
Việc thực hiện thành công của chương trình năm 2005 là đã huấn luyện được 98 Huấn
Luyện Viên huấn luyện rất hiệu quả. Những Huấn Luyện Viên này đã hướng dẫn FFS tại
24 địa điểm ở 8 tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long và 4 tỉnh Duyên Hải Miền Trung của Việt
Nam (Bảng 1). Ngoài ra, Chính Quyền Địa Phương của tỉnh Tiền Giang còn tài trợ để tổ
chức thêm 2 FFS, và 2 lớp FFS nữa cũng đã được cam kết sẽ tổ chức thêm cho năm 2006.
Đây là một sự minh chứng rất có ý nghĩa về tính thích ứng và hữu ích của chương trình
huấn luyện này và người ta mong chương trình FFS này sẽ được tổ chức rộng rãi hơn tại
nhiều địa phương hơn.
Bảng 1: Các địa điểm của FFS
Tỉnh Số FFS
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Tiền Giang 3+2*
Đồng Tháp 2
Vĩnh Long 3
Cần Tho 3
Trà Vinh 1
Hậu Giang 2
Sóc Trăng 1
Bến Tre 3
DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG
Khánh Hòa
2
Bình Định
1
Quảng Nam
1
Nghệ An
2
___
TỔNG CỘNG
24
* Được tài trợ bởi chính quyền địa phương
FFS được khởi sự vào tháng 06 và kéo dài 21 tuần lễ liên tiếp, với một lịch hoạt
động được bố trí linh động bởi các Huấn Luyện Viên trong suốt chương trình huấn
4
luyện (xin coi bản báo cáo 6 tháng đầu). Các nhà khoa học chủ chốt trong dự án đã
tham dự lễ khai mạc của 16 FFS và trong những cuộc khai mạc này, một cuộc khảo
sát về kiến thức thực tiễn của nông dân đã được thực hiện và việc giảng dạy cách
làm những thí nghiệm trình diễn cũng đã được thực hiện. Những phát hiện chính
trong cuộc khảo sát kiến thức thực tiễn của nông dân là:
* Có những khác biệt đáng kể trong các hệ thống sinh thái nông nghiệp và đặc
điểm canh tác cây có múi tại vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và vùng Duyên Hải
miền Trung (gồm cả Tỉnh Nghệ An).
* Các nông dân cần có nhiều kỹ năng hơn nữa trong việc nhận ra sâu bệnh và mối
liên hệ giữa những sâu bệnh này với sự phát triển của cây có múi.
* Việc phun xịt chủ yếu sử dụng các bình xịt tay (đeo trên vai).
* Từ tình hình kinh tế hiện tại và tính không thực tế của các chiến lược phòng trừ
sâu bệnh trước đó như là dự án ACIAR mã số CS2/2000/043 (Phun dầu khoáng) và
dự án CIRAD (quét imidaclorid lên thân) đã dẫn đến một chiến lược mới mà đang
được chấp nhận đó là kết hợp kết hợp những yếu tố của cả hai chiến lược trên mà
hiện taiï đang được người nông dân áp dụng (một lần dùng imidaclorid và sau đó là
phun hai lần dầu khoáng vào mỗi đợt cây ra chồi).
Những chi tiết về việc điều tra phỏng vấn nông dân được trình bày cụ thể trong phụ
lục 1.
Trong tháng 9, Tổ Chức Úc đã đồng ý tài trợ những chuyến tham quan cho nông
dân trong vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long từ nguồn khác ngoài ngân sách dự án,
và tổng số là 2,494 đô la đã được chuyển cho Việt Nam (phụ lục 2). Những tham
quan của nông dân được tiến hành từ 24 đến 29 tháng 10 với tổng số 540 nông dân
từ 18 FFS trong 8 Tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long đi tham quan một FFS ở một
tỉnh khác. Các nông dân từ 7 tỉnh đã đến tham quan ở Huyện Lai Vung, Tỉnh Đồng
Tháp và các nông dân của Huyện Lai Vung đã đến tham quan tại Huyện Cái Bè
của Tỉnh Tiền Giang.
Mục tiêu bổ sung thứ hai về việc tổ chức các cuộc hội thảo đánh giá lại kết quả
công việc đã thực hiện qua một năm triển khai dự án tại Cần Thơ, Mỹ Tho, Vinh
cũng đã được thực hiện vào tháng 11 dưới sự tài trợ của công ty BAYER. Tại các
cuộc họp này, kết quả của các thí nghiệm trình diễn đã được báo cáo bởi các Huấn
Luyện Viên, các chương trình huấn luyện TOT và FFS đã được đánh giá, những
thông tin phản hồi đã được nêu ra và những nội dung của các lớp TOT và FFS cũng
đã được chỉnh sửa (phụ lục 3).
Xây dựng năng lực:
5
PPD có khả năng rất cao trong việc huấn luyện những nông dân tham gia dự án và
dự án này nổi bật hơn nữa là nhờ vào khả năng nhận ra và lấp những khoảng trống
trong kiến thức của nông dân trồng cây có múi bằng những kiến thức chuyên môn
về quản lý sâu bệnh tổng hợp. Suốt trong năm đầu tiên của dự án này, thực tế đã
cho thấy những kỹ năng và năng lực chuyên môn cần thiết thì sẳn có tại các trường
đại học và viện nghiên cứu ở Việt Nam, nhưng ngân sách bị giới hạn ở các cơ quan
địa phương này làm cho sự tiếp cận với những năng lực chuyên môn này nghèo
nàn. Dự án này đã cung cấp một số kinh phí để cho chuyên giaViệt Nam đi du khảo
nhưng không đủ và chúng tôi nhận thấy rằng nên tạo một số quỹ để dùng cho việc
du khảo tại Việt Nam cho các dự án sau này. Tổ chức phía Úc đã cung cấp thêm
tiền du khảo cho tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Cúc thuộc Đại Học Cần Thơ tham quan
Vùng Bờ Biển miền Trung của Việt Nam như đã được mô tả trong bản báo cáo 6
tháng đầu.
Việc tạo ra những kết hợp cũng là điểm then chốt cho việc xây dựng năng lực và
tất cả những nỗ lực đang được thực hiện để xây dựng những liên kết giữa dự án này
và các dự án liên quan khác. Qua phần điều tra khảo sát trình độ canh tác cây có
múi của nông dân cho thấy bệnh Phytophthora đã xảy ra ở mọi vùng và mọi tỉnh
mà chúng tôi đã đến và rằng đây có thể là một vấn đề nghiêm trọng như là bệnh
Huanglongbing. Tuy nhiên, các nông dân thường thường không biết đến vấn đề này
và trong chương trình huấn luyện của TOT của năm 2005, vấn đề bệnh
Phytophthora chỉ là một phần nhỏ trong chương trình mà thôi. Một dự án CARD
khác mang mã số 052/04VIE “Quản lý bệnh Phytophthora trong nghề làm vườn ở
Việt Nam” hiện tại đang hoạt động, Các thành viên UWS đã làm việc với Giáo Sư
David Guest, người Úc đang điều phối dự án bệnh Phytophthora nói trên, để thảo
luận về vấn đề bệnh Phytopthora trên cây có múi. Giáo sư Guest đã cung cấp
những thông tin rất hữu hiệu và cũng cho danh sách các nhân viên Việt Nam có
tham dự trong dự án Bệnh Phytophthora (Phụ Lục 4). Tất cả những thông tin trên
đã được chuyển đến nhóm điều phối dự án, và Ông Hồ Văn Chiến, người tạo ra
những sự kết hợp giữa các dự án. Ông Dương Minh ở Trường Đại Học Cần Thơ
hiện đã tham dự 2 trong 3 cuộc họp đánh gia kết quả của dự án này được tổ chức
vào tháng 12/2005, và ông sẽ tham dự TOT vào năm 2006.
Các chương trình huấn luyện
Việc huấn luyện là một thành phần chủ yếu của dự án này và nó đã được thực hiện
ở hai mức độ vào năm 2005. Tổng số 98 nhân viên PPD có kinh nghiệm đã được
huấn luyện về IPM cam quýt và những Huấn Luyện Viên này đã tổ chức triển khai
một cách hiệu quả được 24 FFS trong các địa phương của họ. Thêm vào số FFS
được tài trợ bởi dự án, Tỉnh Tiền Giang cũng tổ chức thêm 2 FFS do quỹ chính
quyền địa phương tài trợ. Các chi tiết của các chương trình huấn luyện sẽ được thảo
luận trong “Những Điểm Nổi Bật trong việc thực hiện” của dự án này.
6
Việc quảng bá:
Một phát hiện thông qua việc điều tra nông dân ở đầu khoá đó là nông dân sẽ tiếp
nhận được thông tin một cách tốt nhất đó là qua TV bởi vì hơn 90% nông dân có
một TV tại nhà riêng. Mỗi tỉnh ở Việt Nam có một đài truyền hình địa phương và vì
70% dân số sống ở các vùng nông thôn, nên nội dung các buổi phát hình liên quan
đến các vấn đề canh nông rất nhiều. Các phóng viên truyền hình đã được mời tới
dự các buổi sinh hoạt chính của dự án như các buổi hội thảo, các lễ khai giảng và
bế giảng của FFS. Nhiều bản báo cáo trên truyền hình về dự án đã được phát đi
trong năm 2005 và các chi tiết của những báo cáo đó được phát trên đài truyền hình
Quốc Gia VTV, truyền hình Cần Thơ CVTV và truyền hình Vĩnh Long VLTV được
ghi trong bảng 2 dưới đây. Vào tháng 07 và tháng 09, Đài Truyền Hình Tiền Giang
cũng dành 60 phút để phát chương trình “Nhịp Cầu Nhà Nông” trong đó các nông
dân có thể gọi điện đến Đài Truyền Hình để đưa ra những câu hỏi và cách sử dụng
những công nghệ mới trong các vườn cây có múi và các Nhà Khoa Học đều đã trả
lời.
Bảng 2: Các chi tiết về các chương trình truyền hình liên quan đến các hoạt động
của dự án.
Đề mục Tên chương Thời lượng Ngày phát Kênh Truyền
trình của chương hình Hình
trình (tính
bằng phút)
“IPM” một kỹ Các chuyên 30 31/08 VTV
thuật mới trong đề về Nghề
việc sản xuất làm vườn
trái cây hàng
hoá.
Các kỹ thuật để Các chuyên 30 26/11 VTV
chăm sóc tốt đề về Nghề
các vườn cam làm vườn
quýt vào cuối
mùa mưa (sử
dụng phân hữu
cơ với
Trichoderma,
và thoát nước
nhanh)
IPM trên cây có Các chuyên 30 15/9 VTV
múi- Các kinh đề về Nghề
nghiệm để quản làm vườn
lý vườn cam
quýt bằng cách
7
tỉa cành trong
suốt mùa mưa.
IPM trên cây có Nhịp cầu nhà 60 17/11 VTV
múi - Phương nông
pháp mới để
chăm sóc và
quản lý sản xuất
chất lượng trái
quýt hồng trước
và sau thu
hoạch để “định
hướng tiếp thị”
trong ngày
Tết”.
IPM - Những kỹ Nhịp cầu nhà 70 27/11 CVTV
thuật được áp nông
dụng trong canh
tác để giảm giá
thành (đầu vào
thấp) cho ngành
sản xuất cây có
múi tại ĐBSCL
Phát triển và sử Nhịp cầu nhà 70 11/12 CVTV
dụng phân hữu nông.
cơ trong việc
sản xuất nông
nghiệp có xác
nhận
Phòng chống và Chuyên đề 15 15/9 CVTV
xử lý ngập úng nông nghiệp
cho các vườn
cam quýt
IPM - tăng Nhịp cầu nông 120 9/7 CVTV
cường hiệu quả gia.
của năng suất
và cải tiến chất
lượng trái cam
quýt bằng cách
sử dụng PSO.
IPM trong Bản tường 11 20/9 VLTV
chương trình trình về nông
cam quýt tại nghiệp và
Vĩnh Long của nông thôn.
PPD và WSU.
8
Bệnh Greening Bản tường 10 25/10 VLTV
tấn công Cam trình về nông
sành và cần nghiệp và
phải mở rộng về nông thôn.
IPM để ngăn
chặn.
IPM - phương Bản tường 15 29/11 VLTV
pháp quản lý tốt trình về nông
bệnh thối rễ do nghiệp và
Fusarium solani nông thôn.
và thối gốc, chảy
nhựa do nấm
Phytophthora
spp.
IPM như là một Bản tin tức 03.40 30/11 VLTV
phương pháp
cải tiến
Bản tóm tắt của một bài báo tựa đề “Khả năng phục hồi của công nghệ trồng cây