Kiểm toán là lĩnh vực đang dần được khẳng định và chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù mới ra đời và phát triển trong hơn 15 năm nhưng số lượng các công ty kiểm toán đã ngày càng gia tăng, chứng tỏ nhu cầu đối với lĩnh vực này ngày càng cao.
Kiểm toán Báo cáo tài chính luôn là dịch vụ truyền thống và chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của các công ty kiểm toán hiện nay. Trước xu thế hội nhập như ngày nay các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam luôn phải đặt ra yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ của mình để có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và cạnh tranh với các công ty kiểm toán nước ngoài.
Trong đó, đánh giá rủi ro kiểm toán là một bước rất quan trọng để giúp cho các công ty kiểm toán xây dựng một kế hoạch kiểm toán hợp lý góp phần nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả của cuộc kiểm toán. Việc rủi ro kiểm toán có được đánh giá chính xác hay không có ảnh hưởng quan trọng đến các quyết định của kiểm toán viên và những công việc mà kiểm toán viên phải thực hiện.
Ngoài phần lời mở đầu và phần kết luận, đề tài nghiên cứu gồm 3 phần:
Chương 1: Lý luận cơ bản về kiểm toán báo cáo tài chính và rủi ro kiểm toán.
Chương 2: Thực trạng đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay.
78 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 8324 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán chính tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Kiểm toán là lĩnh vực đang dần được khẳng định và chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù mới ra đời và phát triển trong hơn 15 năm nhưng số lượng các công ty kiểm toán đã ngày càng gia tăng, chứng tỏ nhu cầu đối với lĩnh vực này ngày càng cao.
Kiểm toán Báo cáo tài chính luôn là dịch vụ truyền thống và chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của các công ty kiểm toán hiện nay. Trước xu thế hội nhập như ngày nay các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam luôn phải đặt ra yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ của mình để có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và cạnh tranh với các công ty kiểm toán nước ngoài.
Trong đó, đánh giá rủi ro kiểm toán là một bước rất quan trọng để giúp cho các công ty kiểm toán xây dựng một kế hoạch kiểm toán hợp lý góp phần nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả của cuộc kiểm toán. Việc rủi ro kiểm toán có được đánh giá chính xác hay không có ảnh hưởng quan trọng đến các quyết định của kiểm toán viên và những công việc mà kiểm toán viên phải thực hiện. Chính vì vậy, nhóm chúng em chọn đề tài “Đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo chính tại Việt Nam hiện nay” để thấy được cơ sở lý luận về phương pháp đánh giá rủi ro và thực trạng đánh giá rủi ro ở một số công ty kiểm toán tại Việt Nam hiện nay.
Nội dung của đề tài
Ngoài phần lời mở đầu và phần kết luận, đề tài nghiên cứu gồm 3 phần:
Chương 1: Lý luận cơ bản về kiểm toán báo cáo tài chính và rủi ro kiểm toán.
Chương 2: Thực trạng đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và sử dụng các phương pháp kỹ thuật khác như, phương pháp tư duy lôgic, phương pháp diễn giải, quy nạp, phương pháp so sánh và phân tích để tổng hợp về lý luận và thực tiễn đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC. Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng phương pháp sơ đồ, bảng biểu để làm rõ và bổ sung thêm cho lý luận cũng như thực tiễn đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC.
Hướng đóng góp của đề tài nghiên cứu
Đề tài đã hệ thống hóa lý luận về trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán nói chung và đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm toán trong BCTC nói riêng. Bên cạnh đó, đề tài đã mô tả được thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán tại một số công ty Kiểm toán tại Việt Nam. Từ đó, đề tài đã đưa ra được nhận xét cho những vấn đề còn tồn tại và phương hướng nhằm hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán tại Công ty Kiểm toán Việt Nam.
Do còn có những hạn chế về mặt kiến thức nên Đề tài nghiên cứu của nhóm chúng em không tránh khỏi những sai sót. Chúng em rất mong thầy cô giáo đóng góp ý kiến để Đề tài của chúng em được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn giảng viên Nguyễn Thị Mỹ đã tận tình hướng dẫn chúng em làm Đề tài nghiên cứu khoa học này.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN
Lý luận chung về kiểm toán báo cáo tài chính
Khái niệm:
Kiểm toán báo cáo tài chính là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về bảng khai tài chính của các đơn vị do các kiểm toán viên có năng lực và trình độ chuyên môn tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.
Đặc trưng của kiểm toán báo cáo tài chính
Ngoài những đặc trưng chung của kiểm toán thì kiểm toán tài chính cũng có những đặc trưng riêng ngay trong cái chung và từ cái chung về chức năng, đối tượng, phương pháp đến tổ chức kiểm toán:
Về chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến: việc thu thập thông tin trong kiểm toán báo cáo tài chính có vai trò quan trọng, có ảnh hưởng rộng khắp đến lợi ích rất nhiều người sử dụng kết quả kiểm toán. Vì vậy, mọi giai đoạn trong kiểm toán tài chính đều hướng đến bằng chứng kiểm toán để đưa ra kết luận kiểm toán.
Về quan hệ chủ thể và khách thể trong kiểm toán tài chính mang tính ngoại kiểm, do đó hiểu biết của chủ thể và khách thể kiểm toán là rất quan trọng và thực hiện ở giai đoạn đầu của kiểm toán.
Về trình tự kiểm toán, bảng khai tài chính mang tính chất tổng hợp, tính công khai, tính thời điểm, và do quan hệ nội kiểm – ngoại kiểm, nên trình tự cụ thể trong mỗi bước kiểm toán đều được triển khai phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng.
Về phương pháp kiểm toán, do đặc điểm của đối tượng và của quan hệ chủ thể - khách thể kiểm toán nói trên, kiểm toán tài chính thường sử dụng các phương pháp kiểm toán cơ bản để hình thành các trắc nghiệm kiểm toán cơ bản nhằm tìm hiểu và đánh giá tình hình hoạt động cũng như hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ. Trên cơ sở các phương pháp kiểm toán hình thành bằng chứng kiểm toán.
Về đối tượng kiểm toán, kiểm toán tài chính có đối tượng trực tiếp là bảng khai tài chính.
Bảng 1.1: Những đặc điểm cơ bản của kiểm toán tài chính
so với kiểm toán hoạt động
Loại hình
kiểm toán Đặc trưng
Kiểm toán tài chính
Kiểm toán hoạt động
Mục đích( trong triển khai chức năng)
Thu thập bằng chứng cho những kết luận kiểm toán phục vụ khai hóa tài chính
Góp phần bảo vệ tài sản, bảo đảm tin cậy của thông tin, tuân thủ pháp lý,hiệu quả hoạt động, hiệu quả quản lý
Cơ sở pháp lý
Chuẩn mực chung
Các tiêu chuẩn định mức, quy định cụ thể
Đối tượng trực tiếp
Bảng khai tài chính
Tài sản và các hoạt động cụ thể
Chủ thể
Kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà nước,( kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ và kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập
Khách thể
Doanh nghiệp, cơ quan hoặc tổ chức có bảng khai cần xác minh, cá nhân có tài khoản, bảng khai cần xác minh
Bộ phận hoặc loại hoạt động trong khách thể kiểm toán
Phương pháp cụ thể
Theo hướng tổng hợp hoặc chi tiết các phương pháp kiểm toán cơ bản
Sử dụng hoặc chi tiết phương pháp kiểm toán cơ bản
Trình tự trong quan hệ với kế toán
Ngược với trình tự kế toán
Theo trình tự kế toán
Trình tự theo các bước cơ bản
Gắn với kiểm soát nội bộ và tính tổng quát, tính thời điểm của bảng khai tài chính
Tùy theo đối tượng kiểm toán cụ thể; tài sản nghiệp vụ và hiệu quả quản lý.
Lý luận chung về rủi ro kiểm toán
Khái niệm
Theo chuẩn mực kiểm toán số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” rủi ro kiểm toán (Audit Risk - AR) là rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu.
Vì vậy, khi lập kế hoạch kiểm toán cho một hợp đồng kinh tế, kiểm toán viên phải dự kiến các trường hợp rủi ro và những trình tự, những thủ pháp kiểm toán nhằm phát hiện ra những sai lầm nghiêm trọng trong BCTC mà nguồn gốc của nó là các gian lận và sai sót. Kiểm toán viên phải lập kế hoạch kiểm toán và thực thi kế hoạch kiểm toán với thái độ thận trọng để rủi ro kiểm toán nếu xảy ra thì cũng ở mức độ chấp nhận được. Mức độ rủi ro kiểm toán cao hay thấp quyết định khối lượng công việc kiểm toán cần tiến hành. Vì vậy, cần phải tiến hành phân loại rủi ro, xem xét mối quan hệ tác động giữa các loại rủi ro đến khối lượng công việc kiểm toán cần phải tiến hành, cũng như các trình tự và thủ pháp kiểm toán thích hợp để thực hiện kế hoạch kiểm toán.
1.2.2. Các loại rủi ro kiểm toán
a) Rủi ro tiềm tàng( Inherent Risk – IR)
Theo chuẩn mực kiểm toán số 400 “ đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” thì rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không hệ thống kiểm soát nội bộ.
Mức độ rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm tình hình kinh doanh của khách thể kiểm toán, loại hình kinh doanh và cả năng lực nhân viên của khách thể kiểm toán. Kiểm toán viên không tạo ra cũng không kiểm soát, họ chỉ có thể đánh giá chúng. Việc phân tích rủi ro tiềm tàng có một ý nghĩa quan trọng trong khi lập kế hoạch kiểm toán. Mức độ rủi ro tiềm tàng là cơ sở lựa chọn các thủ pháp kiểm toán, xác định khối lượng công việc, thời gian, biên chế và chi phí cần thiết cho một cuộc kiểm toán. Sự phân tích, đánh giá rủi ro tiềm tàng được thực hiện hàng năm như là một bộ phận của quá trình lập kế hoạch kiểm toán. Khi đánh giá rủi ro tiềm tàng kiểm toán viên cần phải xem xét, đánh giá một số yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng như:
Bản chất công việc kinh doanh của khách hàng:
Rủi ro tiềm tàng đối với một số tài khoản nhất định bị ảnh hưởng bởi bản chất công việc kinh doanh của khách hàng. Ví dụ, có khả năng rủi ro lớn hơn về hàng tồn kho lạc hậu ở một số xí nghiệp xuất hàng điện tử so với xí nghiệp luyện kim. Rủi ro tiềm tàng có khả năng khác nhau nhiều nhất giữa các doanh nghiệp đối với các tài khoản như tồn kho, các khoản phải thu và tài sản cố định.
Tính liêm chính của Ban quản trị:
Khi ban quản trị bị khống chế bởi một hoặc một số ít cá nhân thiếu liêm chính, khả năng báo cáo tài chính bị báo cáo sai nghiêm trọng tăng lên rất cao. Thường thì ban quản trị có một mức độ liêm chính hợp lý nhưng không thể được xem là hoàn toàn trung thực trong mọi cách xử sự.
Động cơ của khách hàng:
Trong nhiều trường hợp, Ban quản trị tin rằng sẽ có lợi nếu báo cáo sai. Ví dụ, nếu Ban quản trị nhận được tiền thưởng theo tỷ lệ lợi nhuận thì có thể có xu hướng báo cáo dư lợi nhuận thu Ban quản trị muốn công ty nộp các khoản thuế ít đi. Nếu Ban quản trị thiếu trung thực thì họ có thể vì một số động cơ mà lập báo cáo tài chính sai.
Kết quả của các cuộc kiểm toán lần trước:
Những sai số được tìm thấy trong lần kiểm toán của năm trước có khả năng xuất hiện trở lại trong lần kiểm toán của năm nay cao. Điều này là do rất nhiều loại sai số có bản chất hệ thống, việc thay đổi những sai lầm thường có sự chậm chễ nhất định. Do đó, KTV sẽ phải lưu ý đến kết quả của cuộc kiểm toán trong năm trước.
Hợp đồng ban đầu với hợp đồng gia hạn
Các KTV sẽ thu thập được kinh nghiệm và kiến thức về khả năng sai sót sau khi kiểm toán một khách hàng trong vài năm. Việc thiếu kết quả kiểm toán của những năm trước sẽ gây cho hầu hết kiểm toán viên phải sử dụng mức rủi ro tiềm tàng cao hơn đối với lần kiểm toán đầu so với kiểm toán sau mà không tìm thấy sai sót nghiêm trọng. Hầu hết KTV xây dựng một mức rủi ro tiềm tàng cao trong năm đầu tiên kiểm toán và giảm dần trong những năm sau khi họ đã có kinh nghiệm.
Các bên có liên quan
Trên thực tế không phải công ty nào cũng hạch toán các nghiệp vụ một cách độc lập mà giữa các nghiệp vụ kinh tế còn liên quan đến nhiều bên như: công ty mẹ-con, những đơn vị mới sát nhập. Vì vậy, việc những bên liên quan có vấn đề ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng là điều mà KTV phải chú trọng.
Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên
Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên với khách hàng có khả năng sai sót nhiều hơn các nghiệp vụ hàng ngày vì khách hàng thiếu kinh nghiệm khi vào sổ chúng.
Số lượng tiền của các số dư tài khoản:
KTV thường cho rằng các số dư tài khoản có số dư bằng tiền lớn thì có khả năng sai sót nhiều hơn những tài khoản có số dư bằng tiền nhỏ. Do đó, rủi ro tiềm tàng thường cao hơn và cần nhiều bằng chứng kiểm toán để kiểm tra hơn.
Cấu tạo của tổng thể:
Các khoản mục cá biệt tạo thành một tổng thể cũng thường ảnh hưởng đến quá trình ước tính của kiểm toán viên về sai sót trọng yếu. Ví dụ, hầu hết kiểm toán viên sẽ sử dụng mức rủi ro cố hữu cao hơn đối với các khoản phải thu khi hầu hết các tài khoản đã quá hạn đáng kể so với các khoản phải thu đúng hạn.
Trên cơ sở xem xét những yếu tố có ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng, kiểm KTV đánh giá loại rủi ro này trên hai phương diện:
+ Trên phương diện báo cáo tài chính:
Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban giám đốc cũng như sự thay đổi thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán;
Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân viên kế toán chủ yếu, của KTV nội bộ và sự thay đổi (nếu có) của họ;
Những áp lực bất thường đối với Ban giám đốc, đối với kế toán trưởng, nhất là những hoàn cảnh thúc đẩy Ban giám đốc, kế toán trưởng phải trình bày báo cáo tài chính không trung thực;
Đặc điểm kinh doanh của đơn vị, như: quy trình công nghệ, cơ cấu vốn, các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ;
Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị, như các biến động về kinh tế, về cạnh tranh, sự thay đổi về thị trường mua, thị trường bán và sự thay đổi của hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị.
+ Trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ:
BCTC có thể chứa đựng những sai sót như: BCTC có những điều chỉnh liên quan đến niên độ trước; BCTC có nhiều ước tính kế toán, hoặc trong năm tài chính có sự thay đổi chính sách kế toán;
Việc xác định số dư và số phát sinh của các tài khoản và nghiệp vụ kinh tế như: Số dư các tài khoản dự phòng, nghiệp vụ kinh tế đối với chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu tài sản cố định tính vào chi phí hay tính tăng nguyên giá tài sản cố định;
Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản như: phát sinh nhiều nghiệp vụ thu, chi tiền mặt, tạm ứng tiền với số lượng lớn, thời gian thanh toán dài…;
Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi phải có ý kiến của chuyên gia;
Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp, đặc biệt là gần thời điểm kết thúc niên độ;
Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính bất thường khác.
+ Trên phương pháp đánh giá: ở phần lớn các công ty kiểm toán chuyên nghiệp, các KTV tiến hành phân tích và đánh giá rủi ro theo trình tự “từ đỉnh đến đáy”, nghĩa là tiến hành công việc từ trên xuống, xem xét và đánh giá rủi ro của đơn vị tổng thể, sau đó là từng đơn vị kinh doanh, công ty con, đến từng bộ phận, từng khoản mục trong báo cáo tài chính.
b) Rủi ro kiểm soát (Control risk CR)
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 “đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” thì rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện hết và sửa chữa kịp thời. Rủi ro kiểm soát tồn tại là do hạn chế cố hữu của hệ thống kiểm soát nội bộ. Mặc dù hệ thống kiểm soát nội bộ được lập ra do yêu cầu của nhà quản lý nhằm khắc phục những yếu kém trong công ty nhưng trong quá trình hoạt động nó cũng không tránh khỏi bộc lộ những hạn chế như:
Yêu cầu thông thường là chi phí là chi phí cho hệ thống kiểm soát nội bộ không vượt quá những lợi ích mà nó mang lại;
Phần lớn các thủ tục kiểm soát nội bộ thường được thiết lập cho các nghiệp vụ thường xuyên, lặp đi, lặp lại hơn là các nghiệp vụ thường xuyên;
Sai sót bởi con người thiếu chú ý, đãng trí khi thực hiện nhiệm vụ hoặc do không hiểu rõ yêu cầu công việc;
Khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ không phát hiện được sự thông đồng trong Ban quản lý hoặc nhân viên với những người khác trong hay ngoài công ty;
Khả năng người chịu trách nhiệm thực hiện thủ tục kiểm soát của mình lạm dụng quyền lực;
Do thay đổi cơ chế và yêu cầu của quản lý làm cho các thủ tục kiểm soát bị lạc hậu hoặc bị vi phạm.
Đánh giá rủi ro kiểm soát thực chất là quá trình đánh giá tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ đối với việc phát hiện và ngăn chặn các gian lện và sai sót quan trọng trong báo cáo tài chính. Sau khi tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ, KTV cần đánh giá sơ bộ rủi ro kiểm soát đối với các cơ sở dẫn liệu trong báo cáo tài chính. KTV thường đánh giá rủi ro kiểm soát cao đối với một hay tất cả các cơ sở dẫn liệu khi kiểm toán viên tin rằng:
Các thủ tục và các biện pháp kiểm soát của đơn vị đối với một hay tất cả các cơ sở dẫn liệu đó là không có tác dụng;
Khi kiểm toán viên không có đầy đủ cơ sở đánh giá tác dụng của các thủ tục và các biện pháp kiểm soát của đơn vị;
KTV có thể đánh giá rủi ro kiểm soát là thấp khi:
Xác định được các thủ tục và các biện pháp kiểm soát của đơn vị liên quan đến các cơ sở dẫn liệu là có tác dụng, có khả năng phát hiện và ngăn chặn các gian lận sai sót;
Có điều kiện và có kế hoạch tiến hành các thử nghiệm để khẳng định sự đánh giá của mình về hệ thống kiểm soát.
Sơ đồ 1.1: Quy trình đánh giá rủi ro kiểm soát
Quá trình đánh giá rủi ro kiểm soát
Mức được chứng minh
bằng sự hiểu biết đã có
Mức thấp hơn khả
năng dĩ có thể
chứng minh được
Mức tối
đa
Mở rộng sự hiểu biết
nếu thấy cần thiết
Lập kế hoạch và thực hiện thử
nghiệm các thủ tục kiểm soát
Không
thể
Xác định liệu mức đánh giá về rủi ro kiểm
soát có được giảm hơn từ kết quả của
các thử nghiệmkiểm soát hay không
giảm
Rủi ro kiểm soát giảm xuống,
rủi ro phát hiện tăng lên và phải
lập kế hoạch các trắc nghiệm kiểm
toán để thỏa mãn mức rủi ro phát
hiện tăng lên này
Rủi ro kiểm soát tăng hơn so với mức
đánh giá ban đầu hoặc ở mức tối đa.
Rủi ro phát hiện giảm xuống và phải
lập kế hoạch các trắc nghiệm toán để thỏa
mãn mức rủi ro phát hiện thấp hơn này.
c) Rủi ro phát hiện ( Detection Risk – DR)
Theo chuẩn mực kiểm toán số 400 “đánh giá rủi ro và hệ thống kiểm soát nội bộ” thì rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện được.
Ngược lại với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, KTV phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán nhằm quản lý và kiểm soát rủi ro phát hiện. Rủi ro phát hiện phụ thuộc vào:
Mức độ thích hợp của các bước kiểm toán;
Tính hợp lí của việc thực hiện quy trình kiểm toán cho mỗi phần hành; Mối quan hệ giữa bằng chứng kiểm toán với nhận thức hoặc nhận định và đưa ra kết luận về phần hành đó cũng như về BCTC;
Khả năng phát hiện ra sai sót do có sự thông đồng nhất trí bên trong doanh nghiệp để thực hiện không đúng các chế độ chính sách do Ban giám đốc đề ra.
Nói cách khác, mức độ rủi ro phát hiện có quan hệ mật thiết với những phương pháp kiểm toán và các bằng chứng mà KTV thu thập được. Nguyên nhân chính xảy ra tình trạng này là do các phương pháp kiểm toán mà KTV áp dụng là không phù hợp, hoặc áp dụng sai phương pháp kiểm toán đã chọn, hoặc khi đã có kết quả thực tế của cuộc kiểm toán thì KTV lại đưa ra các đánh giá và nhận xét sai lầm. Các nguyên nhân xảy ra rủi ro phát hiện có thể khái quát như sau:
Thứ nhất: Kiểm toán viên áp dụng các bước kiểm toán không phù hợp. Điều này thường xảy ra với các KTV mới vào nghề, thiếu kinh nghiệm hoặc quá trình lập kế hoạch kiểm toán không được thực hiện một cách đúng đắn khiến cho việc thực hiện các quy trình kiểm toán đối với mỗi phần hành trở nên không hợp lí.
Thứ hai: Kiểm toán viên đã tìm được bằng chứng, nhưng không tìm được nguyên nhân gây sai sót dẫn đến kết luận sai về bản chất của khoản mục hoặc nghiệp vụ đó cũng như BCTC.
Thứ ba: Các BCTC bản thân cũng chứa đựng các sai sót, nhưng sự sai sót đó là do bên trong doanh nghiệp đã có sự thông đồng để làm sai các chính sách và chế độ của Ban quản trị đề ra nên KTV rất khó phát hiện ra gian lận và sai sót.
Việc xác định rủi ro phát hiện được thực hiện thông qua mô hình rủi ro kiểm toán:
AR = IR×CR×DR
Với mô hình này, KTV có thể sử dụng để điều chỉnh rủi ro phát hiện dựa trên các loại rủi ro khác đã được đánh giá nhằm đạt được rủi ro kiểm toán ở mức thấp như mong muốn. Khi rủi ro kiểm toán được xác định ở mức mong muốn thì rủi ro phát hiện tỷ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Ví dụ, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức cao thì rủi ro phát hiện được đánh giá ở mức thấp để rủi ro kiểm toán mong muốn ở mức chấp nhận được. Hay khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức thấp thì rủi ro phát hiện có thể được đánh giá ở mức cao hơn nhưng vẫn đảm bảo rủi ro kiểm toán mong muốn ở mức chấp nhận được.
Mức độ rủi ro phát hiện có quan hệ trực tiếp đến phạm vi kiểm to