Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) hiện hành đ¬ược Quốc hội khoá X thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/1999 với mục tiêu chủ yếu là để hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng xã hội, điều tiết thu nhập của người tiêu dùng cho ngân sách nhà nước một cách hợp lý, tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh đối với một số hàng hoá, dịch vụ. Trong quá trình triển khai thực hiện, Luật thuế TTĐB năm 1999 được sửa đổi, bổ sung 2 lần (năm 2003 và 2005) nhằm tháo gỡ những vướng mắc phát sinh, tạo điều kiện thuận cho việc đàm phán gia nhập WTO.
Luật thuế TTĐB sau quá trình thực hiện đã có tác động tích cực đến nền kinh tế - xã hội của đất nước và đã đạt được những mục tiêu đề ra. Tuy nhiên trước bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, bên cạnh một số ưu điểm, Luật thuế TTĐB vẫn còn bộc lộ một số vấn đề cần phải xem xét để tiếp tục hoàn thiện
7 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2769 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Đánh giá tình hình Thuế tiêu thụ dặc biệt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÁO CÁO
Đánh giá tình hình thực hiện luật thuế tiêu thụ đặc biệt
-------------------------------
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) hiện hành được Quốc hội khoá X thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/1999 với mục tiêu chủ yếu là để hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng xã hội, điều tiết thu nhập của người tiêu dùng cho ngân sách nhà nước một cách hợp lý, tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh đối với một số hàng hoá, dịch vụ. Trong quá trình triển khai thực hiện, Luật thuế TTĐB năm 1999 được sửa đổi, bổ sung 2 lần (năm 2003 và 2005) nhằm tháo gỡ những vướng mắc phát sinh, tạo điều kiện thuận cho việc đàm phán gia nhập WTO.
Luật thuế TTĐB sau quá trình thực hiện đã có tác động tích cực đến nền kinh tế - xã hội của đất nước và đã đạt được những mục tiêu đề ra. Tuy nhiên trước bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, bên cạnh một số ưu điểm, Luật thuế TTĐB vẫn còn bộc lộ một số vấn đề cần phải xem xét để tiếp tục hoàn thiện, cụ thể như sau:
I. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Thuế TTĐB đã góp phần hướng dẫn tiêu dùng xã hội
Kể từ khi áp dụng, thuế TTĐB đã phát huy vai trò góp phần hướng dẫn, tiêu dùng xã hội. Pháp luật về thuế TTĐB quy định đối tượng hàng hoá và dịch vụ chịu thuế chủ yếu là những chủng loại mà Nhà nước không khuyến khích tiêu dùng (thuốc lá, rượu bia) hoặc việc tiêu dùng được tập trung vào những bộ phận có thu nhập cao (như ô tô, chơi gôn) hay những dịch vụ mang tính nhạy cảm về mặt xã hội (kinh doanh vũ trường, mát xa, karaoke, casino...). Quy định này là phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tích cực trong việc hình thành một xu thế tiêu dùng xã hội lành mạnh; Khuyến khích sản xuất và tiêu dùng các mặt hàng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của đất nước trong từng giai đoạn.
Đối với mặt hàng ô tô ngoài việc điều tiết thu nhập của những người có thu nhập cao thì thuế TTĐB cũng có tác dụng trong việc góp phần hạn chế sử dụng xe du lịch, xe cá nhân trong điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông của ta còn yếu kém chưa theo kịp với tốc độ gia tăng các phương tiện giao thông.
2. Thuế TTĐB góp phần vào việc hội nhập kinh tế quốc tế
Để thực hiện các cam kết hội nhập, việc quy định lộ trình từng bước tăng thuế đối với một số mặt hàng như ô tô sản xuất lắp ráp trong nước (2004-2005), thuốc lá, bia hơi (2006-2007) có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Một mặt, bảo đảm thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước với hàng nhập khẩu theo đúng các nguyên tắc của WTO. Mặt khác, đã hạn chế những tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh mặt hàng thuốc lá, bia hơi khi phải thực hiện các cam kết hội nhập, giúp các doanh nghiệp có thời gian phục hồi và ổn định sản xuất, kinh doanh.
Ngoài ra, với việc quy định thống nhất áp dụng một mức thuế suất đối với các mặt hàng thuốc lá, bia hơi, bia tươi đã góp phần vào thành công của quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam.
3. Thuế TTĐB góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh đối với một số hàng hóa, dịch vụ
Trong thời gian Việt Nam chưa phải thực hiện các cam kết quốc tế, việc duy trì một số ưu đãi về thuế suất đối với một số mặt hàng như bia hơi, rượu có nồng độ dưới 40 độ cồn, thuốc lá sử dụng nguyên liệu trong nước là chủ yếu, ô tô sản xuất lắp ráp trong nước đã tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp có thời gian đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nước, góp phần đảm bảo việc làm, ổn định thu nhập cho người lao động, tạo cho các doanh nghiệp trong nước có điều kiện để tích luỹ, đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh trước khi bước vào hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Thuế TTĐB góp phần ổn định và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Thuế TTĐB là nguồn thu ổn định của ngân sách sách nhà nước. Tỷ trọng thu ngân sách từ thuế TTĐB trong tổng thu ngân sách từ thuế, phí và lệ phí đã không ngừng tăng trong những năm qua, từ mức 7,89% năm 2003 lên mức 9,49% năm 2007. Trong tổng thu từ thuế TTĐB thì thuế TTĐB thì số thu từ các mặt hàng ô tô, thuốc lá và rượu, bia chiếm tỷ trọng lớn nhất. Dự báo thuế TTĐB tiếp tục là nguồn thu ổn định trong những năm tới của ngân sách nhà nước.
II. MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ
Trong quá trình thực hiện, Luật thuế TTĐB đã được sửa đổi, bổ sung để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc phát sinh, phù hợp với thực tiễn của nước ta. Tuy nhiên trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế của Việt Nam trong những năm tới, Luật thuế TTĐB hiện hành đã bộc lộ một số tồn tại chủ yếu sau đây:
1. Về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế TTĐB
Luật hiện hành quy định 5 loại hàng hoá và 3 loại hình dịch vụ thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật. Quy định này cơ bản là phù hợp, song trong quá trình thực hiện cũng có phát sinh một số vấn đề vướng mắc. Cụ thể là:
a) Đối với mặt hàng ô tô:
Luật hiện hành quy định ô tô dưới 24 chỗ ngồi thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB, quy định này là phù hợp với hoàn cảnh kinh tế và điều kiện giao thông của nước ta, nhằm hạn chế sử dụng ô tô du lịch và các loại xe có ít chỗ ngồi chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân, khuyến khích sử dụng ô tô để phục vụ sản xuất kinh doanh, vận chuyển hành khách công cộng. Tuy nhiên, trong thực tế phát sinh một số trường hợp nếu áp dụng "cứng" theo quy định của Luật sẽ không phù hợp với mục tiêu hướng dẫn tiêu dùng, điều tiết thu nhập của sắc thuế này, cụ thể là:
- Các loại xe ô tô như xe cứu thương, xe chở tù nhân, xe tang lễ, xe buýt vận chuyển khách trong sân bay, xe díi 24 chç ngåi cã thiÕt kÕ chç ®øng (chở từ 24 người trở lên)... tuy thuộc loại ô tô dưới 24 chỗ, nhưng chủ yếu được sử dụng cho mục đích chuyên dùng, phục vụ cho sản xuất kinh doanh và các nhu cầu xã hội khác.
- Các loại xe ô tô thiết kế vừa chở người vừa chở hàng là những loại xe có số chỗ ngồi ít, nếu chỉ căn cứ theo số chỗ ngồi để áp dụng thuế TTĐB thì không phù hợp với đặc điểm của các loại xe này là ngoài việc chở người còn sử dụng để chở hàng hóa phục vụ sản xuất và sinh hoạt.
b) Đối với thuốc lá:
Theo quy định hiện hành, xì gà và thuốc lá điếu thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB, sau khi Việt Nam đã trở thành thành viên WTO, dự báo trên thị trường nội địa sẽ xuất hiện một số loại sản phẩm thuốc lá khác như: thuốc lá sợi dùng để hút tẩu và các dạng sản phẩm khác dùng để hút, nhai, ngửi. Đây cũng là các sản phẩm thuốc lá, sử dụng là có hại cho sức khoẻ nên không khuyến khích tiêu dùng.
Như vậy, quy định như hiện hành không bao quát được tất cả các loại sản phẩm thuốc lá khác, là những sản phẩm tiêu dùng không có lợi cho sức khoẻ.
c) Đối với mặt hàng điều hoà nhiệt độ:
Luật hiện hành quy định điều hoà nhiệt độ có công suất dưới 90.000 BTU là đối tượng chịu thuế TTĐB. Việc đánh thuế TTĐB đối với điều hoà nhiệt độ là nhằm vào các đối tượng sử dụng điều hoà nhiệt độ trong gia đình, khách sạn, nhà hàng, văn phòng...Tuy nhiên do trong Luật chỉ quy định chung điều hoà nhiệt độ có công suất dưới 90.000 thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB nên khi thực hiện có sự chưa rõ ràng và nhất quán trong việc thu hay không thu thuế TTĐB đối với một số loại điều hoà nhiệt độ có công suất dưới 90.000 BTU sử dụng để lắp trên các phương tiện vận tải như ô tô, tàu hoả, tàu biển. Trên thực tế các loại điều hoà này được coi là tư liệu sản xuất phục vụ cho sản xuất, lắp ráp phương tiện vận tải và trong hoạt động vận tải hành khách, nếu thu thuế TTĐB là không hợp lý.
d) Đối với dịch vụ trò chơi bằng máy jackpot:
Hiện nay, trò chơi bằng máy jackpot thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB với thuế suất 25%. Trong thực tế, ngoài chủng loại máy jackpot còn có các loại máy slot machines khác cũng đang được sử dụng cho các trò chơi điện tử có thưởng. Vì vậy nếu chỉ quy định máy jackpot thuộc đối tượng chịu thuế thì không bao quát được tất cả các loại trò chơi điện tử có thưởng khác.
đ) Về hàng hoá nhập khẩu vào khu phi thuế quan:
Theo quy định của pháp luật về hải quan và về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, quan hệ trao đổi hàng hoá từ thị trường nội địa và từ nước ngoài vào các khu khu phi thuế quan là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của cũng đã có quy định hàng hoá từ thị trường trong nước nhập khẩu vào khu phi thuế quan và từ khu phi thuế quan thuộc diện không phải chịu các thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Thông lệ quốc tế cũng cho thấy hàng hoá thuộc diện này đều không phải chịu các khoản thuế gián thu. Tuy nhiên, Luật thuế TTĐB hiện hành lại chưa có quy định này nên đã dẫn đến một số vướng mắc khi thực hiện.
2. Về thuế suất
Mức thuế suất đối với các mặt hàng thuộc diện chịu thuế TTĐB thời gian vừa qua là tương đối hợp lý, điều tiết có hiệu quả cho nguồn thu ngân sách, tuy nhiên trước yêu cầu phải thực hiện các cam kết gia nhập WTO thì cần phải có những sửa đổi phù hợp, cụ thể:
a) Đối với rượu:
Luật thuế TTĐB hiện hành quy định: Rượu từ 20 độ đến dưới 40 độ thuế suất 30%; Rượu từ 40 độ trở lên thuế suất 65%. Quy định này thể hiện quan điểm không khuyến khích tiêu dùng đối với mặt hàng rượu nói chung, đặc biệt là rượu mạnh từ 40 độ trở lên là mặt hàng nếu sử dụng nhiều có hại cho sức khoẻ. Tuy nhiên trên thực tế rượu sản xuất trong nước chủ yếu là loại có nông độ cồn từ 20% đến dưới 40%, trong khi đó các loại rượu mạnh nhập khẩu thường có nồng độ cồn trên 40%, do vậy các đối tác nước ngoài cho rằng ta đã phân biệt đối xử thông quy quy định này. Theo cam kết gia nhập WTO, trong vòng 3 năm kể từ ngày gia nhập WTO, tất cả các loại rượu được chưng cất có nồng độ từ 20 độ cồn trở lên sẽ chịu một mức thuế tuyệt đối tính theo lít rượu cồn nguyên chất hoặc một mức thuế phần trăm. Do vậy, quy định hiện hành về mức thuế suất đối với mặt hàng rượu từ 20 độ trở lên không còn phù hợp với cam kết gia nhập WTO của Việt Nam.
b) Đối với bia:
Luật thuế TTĐB hiện hành quy định bia chai, bia lon: thuế suất 75%; với bia hơi, bia tươi: Năm 2006-2007: thuế suất 30%; từ năm 2008: thuế suất 40%. Thuế suất thuế TTĐB đối với bia hơi là thấp hơn đối với bia chai, bia lon đã được duy trì trong nhiều năm qua, quy định này là phù hợp với hoàn cảnh kinh tế và điều kiện thu nhập của dân cư trong những năm trước đây. Từ năm 2006 đến nay, thuế suất đối với bia hơi tăng dần theo lộ trình (từ 30 % lên 40%), quy định này một mặt thể hiện việc thực hiện các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, đồng thời tạo điều kiện cho các cơ sở kinh doanh bia hơi, nhất là các cơ sở sản xuất bia quy mô nhỏ có thêm thời gian sắp xếp, tổ chức lại sản xuất để tăng cường đầu tư máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm và chuẩn bị tốt hơn khi tham gia vào "sân chơi chung", bình đẳng với các doanh nghiệp khác và các sản phẩm bia khác. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh của kinh tế nước ta trong những năm qua, cần nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm vì sức khoẻ cộng đồng, nên khuyến khích sản xuất các loại đồ uống (trong đó có bia) có chất lượng cao, hạn chế sản xuất, tiêu dùng bia có chất lượng thấp do đó giá rẻ, dễ dẫn đến lạm dụng gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ. Mặt khác, quy định thuế suất bia như hiện hành là có sự phân biệt theo hình thức bao bì, đóng gói, loại có bao bì (bia chai, bia lon) thì áp dụng thuế suất cao hơn loại không có bao bì (bia hơi, bia tươi) như vậy là chưa bảo đảm sự bình đẳng giữa các sản phẩm bia.
Theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, đối với mặt hàng bia, trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập WTO sẽ áp dụng một mức thuế suất phần trăm chung đối với bia, không phân biệt hình thức đóng gói, bao bì. Do vậy quy định hiện hành không còn phù hợp với cam kết.
3. Căn cứ tính thuế và giá tính thuế:
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế và thực tế có nhiều biến đổi thì căn cứ quy định thuế TTĐB đối với ô tô và gía tính thuế đối với mặt hàng bia đã bộc lộ một số hạn chế, cụ thể như sau:
a) Đối với mặt hàng ô tô:
Đối với mặt hàng ô tô, theo Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành, mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt áp dụng đối với ô tô chở người được phân biệt theo số chỗ ngồi, trong đó đối với ô tô từ 5 chỗ trở xuống có mức thuế suất là 50%; ô tô từ 6 chỗ đến 15 chỗ ngồi, thuế suất 30%; ô tô từ 16 đến dưới 24 chỗ ngồi, thuế suất 15%.
Quy định về thuế suất như trên trong thời gian qua cơ bản đã phát huy tác dụng tích cực trong việc hướng dẫn tiêu dùng, hạn chế sự gia tăng quá mức của ô tô cá nhân; đồng thời điều tiết kịp thời vào ngân sách nhà nước thu nhập của một bộ phận có thu nhập khá trong xã hội;
Tuy nhiên qua tham khảo kinh nghiệm nước ngoài cho thấy tại nhiều nước bên cạnh việc sử dụng tiêu chí số chỗ ngồi, thuế suất thuế TTĐB đối với ô tô còn được quy định theo dung tích của máy, trong đó dung tích máy càng lớn thì thuế suất càng cao và ngược lại dung tích máy càng nhỏ thì thuế suất càng thấp. Mục đích của quy định này là để khuyến khích sử dụng các loại phương tiện tiết kiệm năng lượng. Mặt khác xe có dung tích xi lanh lớn là những loại xe có giá trị cao, cần phải có sự điều tiết nhiều hơn để đảm bảo sự công bằng. Bên cạnh đó, một số nước trên thế giới đã sản xuất loại xe ô tô thân thiện với môi trường (sử dụng nhiên liệu sạch hoặc mức độ sử dụng nhiên liệu thấp, khí thải thấp), có thể sẽ xuất hiện tại Việt Nam trong tương lai. Vì vậy, nếu chỉ căn cứ vào số chỗ ngồi để quy định thuế TTĐB đối với ô tô sẽ có những hạn chế nhất định.
b) Đối với mặt hàng bia:
Theo quy định của Pháp luật thuế TTĐB hiện hành thì giá tính thuế đối với hàng hóa sản xuất trong nước là giá do cơ sở sản xuất bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt và chưa có thuế GTGT. Trong đó, đối với mặt hàng bia, giá tính thuế đối với mặt hàng bia chai thì giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt được trừ giá trị vỏ vỏ hộp (lon), giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt được trừ giá trị vỏ hộp (lon) theo mức ấn định cho 1 lít bia (hiện đang được trừ là 3.800 đồng/lít).
Với quy định này thì tuy thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt quy định trong Luật đối với loại bia này là 75%, song nếu tính cả giá trị vỏ lon vào giá tính thuế thì mức thuế suất thực tế chỉ là 50%.
Thực tế phát triển đòi hỏi cần bổ sung một số hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế TTĐB như: xe mô tô 175 phân khối trở lên, là loại xe đắt tiền không phục vụ những nhu cầu cần thiết của số đông người dân; tàu bay, du thuyền có thể phát sinh phục vụ một số nhu cầu của gia đình, cá nhân, công ty cần bổ xung để điều tiết hợp lý những nhu cầu xa xỉ này.
4. Nội dung và kết cấu của Luật không còn phù hợp
Luật Quản lý thuế đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7/2007 đã bãi bỏ các quy định về quản lý thuế như: nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện luật thuế tiêu thụ đặc biệt (Điều 4 Chương 1); đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế (Điều 8, 9, 10, 11, 12, 14 và Điều 15 Chương III); xử lý vi phạm, khen thưởng (Điều 17, 18, 19, 20 Chương V); khiếu nại, khởi kiện và thời hiệu (Điều 21, 22 Chương VI); Tổ chức thực hiện (Điều 23, 24, 25 Chương VI). Do đó, các nội dung về quản lý thuế trong Luật thuế TTĐB không còn hiệu lực thi hành và làm thay đổi kết cầu, thứ tự, số lượng các điều khoản của Luật thuế TTĐB.
Thuế TTĐB được thể hiện tại 3 văn bản Luật là Luật thuế TTĐB năm 1999, Luật sửa đổi một số điều của Luật thuế TTĐB năm 2003, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TTĐB và Luật thuế GTGT năm 2005. Với nhiều văn bản Luật cùng quy định về thuế TTĐB nên chưa tạo thuận lợi cho việc tra cứu, áp dụng pháp luật./.