Báo cáo Hoàn thiện kiểm toán khoản mục doanh thu bán hàng&cung cấp dịch vụ trong kiểm toán tài chính do công ty kiểm toán Aticvietnam thực hiện

Trong các chỉ tiêu tài chính, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được coi là một chỉ tiêu đặc biệt quan trọng, nó luôn ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo kết quả kinh doanh, cũng như ảnh hưởng rất lớn đến các chỉ tiêu trong Bảng cân đối kế toán: Lợi nhuận chưa phân phối, thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp…Đồng thời, nó luôn là nền tảng để các chủ danh nghiệp cũng như người quan tâm xem xét, đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Kiểm toán khoản mục doanh thu BH&CCDV là bước thiết yếu trong kiểm toán Báo cáo tài chính cho bất kỳ khách hàng nào. Công ty kiểm toán Aticvietnam luôn chú trọng khoản mục doanh thu BH&CCDV hơn so với các khoản mục khác. Chuẩn mực Kế toán Việt Nam số 14- Kế toán doanh thu là một trong bốn chuẩn mực đầu tiên do Bộ tài chính ban hành. Nhận thức được tầm quan trọng của công việc kiểm toán doanh thu BH&CCDV, trong thời gian thực tập tại công ty kiểm toán Aticvietnam. Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Phụ lục, nội dung Khóa luận gồm các phần sau: Phần I: Lý luận chung về kiểm toán doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trong kiểm toán tài chính Phần II: Thực trạng kiểm toán doanh thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính được thực hiện tại công ty Aticvietnam. Phần III: Nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện kiểm toán khoản mục doanh thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty Aticvietnam.

doc115 trang | Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 2793 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Hoàn thiện kiểm toán khoản mục doanh thu bán hàng&cung cấp dịch vụ trong kiểm toán tài chính do công ty kiểm toán Aticvietnam thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Trong các chỉ tiêu tài chính, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được coi là một chỉ tiêu đặc biệt quan trọng, nó luôn ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo kết quả kinh doanh, cũng như ảnh hưởng rất lớn đến các chỉ tiêu trong Bảng cân đối kế toán: Lợi nhuận chưa phân phối, thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp…Đồng thời, nó luôn là nền tảng để các chủ danh nghiệp cũng như người quan tâm xem xét, đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Kiểm toán khoản mục doanh thu BH&CCDV là bước thiết yếu trong kiểm toán Báo cáo tài chính cho bất kỳ khách hàng nào. Công ty kiểm toán Aticvietnam luôn chú trọng khoản mục doanh thu BH&CCDV hơn so với các khoản mục khác. Chuẩn mực Kế toán Việt Nam số 14- Kế toán doanh thu là một trong bốn chuẩn mực đầu tiên do Bộ tài chính ban hành. Nhận thức được tầm quan trọng của công việc kiểm toán doanh thu BH&CCDV, trong thời gian thực tập tại công ty kiểm toán Aticvietnam, dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Ths. Bùi Thị Minh Hải và các anh chị KTV, em đã lựa chọn đề tài: “ Hoàn thiện kiểm toán khoản mục doanh thu bán hàng&cung cấp dịch vụ trong kiểm toán Báo cáo tài chính do công ty kiểm toán Aticvietnam thực hiện” làm Khóa luận tốt nghiệp đại học cho mình. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong Khóa luận của mình, em chỉ đi sâu nghiên cứu kiểm toán khoản mục doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trong doanh nghiệp sản xuất mà chưa đi sâu vào nghiên cứu toàn bộ các khoản mục khác của doanh thu như: Doanh thu nội bộ, doanh thu hoạt động tài chính hay của loại hình doanh nghiệp khác như công ty thương mại, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ... Phương pháp nghiên cứu Bằng phương pháp luận của phép biện chứng duy vật kết hợp với các phương pháp toán học, logic…cùng với các kỹ thuật kế toán, kiểm toán và những kiến thức mà em đã học, tích lũy được đã giúp em hoàn thành Khóa luận này. Nội dung của Đề tài Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Phụ lục, nội dung Khóa luận gồm các phần sau: Phần I: Lý luận chung về kiểm toán doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trong kiểm toán tài chính Phần II: Thực trạng kiểm toán doanh thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính được thực hiện tại công ty Aticvietnam. Phần III: Nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện kiểm toán khoản mục doanh thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty Aticvietnam. Những đóng góp của Đề tài Trong Khóa luận của mình, em đã đi nghiên cứu thực trạng kiểm toán khoản mục doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. Bên cạnh đó, em có đưa ra những nhận xét và kiến nghị đối với công ty nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa chương trình kiểm toán khoản mục doanh thu BH&CCDV. Do còn hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm, cách diễn đạt ý nên Khóa luận này không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của cô giáo cùng những người quan tâm để Khóa luận của em ngày càng hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của cô giáo Ths.Bùi Thị Minh Hải đã giúp em hoàn thành Khóa luận này. PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN DOANH THU BÁN HÀNG & CUNG CẤP DỊCH VỤ TRONG KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH 1.1.Khái quát về kiểm toán tài chính 1.1.1.Khái niệm về kiểm toán tài chính Kiểm toán là một hoạt động có từ rất lâu đời, tính từ thời mà các thông tin được phê chuẩn bằng cách đọc lên trong một buổi họp công khai. Vì thế từ gốc của thuật ngữ kiểm toán(Audit) theo tiếng La tinh là “Auditus” có nghĩa là “nghe”(1). Từ thời Trung cổ, kiểm toán đã được thực hiện bởi các KTV nhà nước và KTV nội bộ để thẩm tra về tính chính xác của các thông tin tài chính. Trong giai đoạn này, lĩnh vực kiểm toán phát triển chủ yếu là kiểm toán tuân thủ. Sau này, với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế toàn cầu, kiểm toán độc lập đã được ra đời và ngày càng chiếm một tầm quan trọng lớn nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Thuật ngữ “kiểm toán” thực sự mới xuất hiện và được sử dụng ở nước ta từ hơn một chục năm cuối thế kỷ XX. Chính vì thế, có rất nhiều quan điểm khác nhau về kiểm toán. Nhìn chung có thể khái quát thành ba quan điểm chính sau: Quan điểm 1: đó là đồng nhất giữa kiểm toán và kiểm tra kế toán. Tuy nhiên, kiểm tra kế toán không phải là một hoạt động độc lập mà nó gắn liền với hoạt động của kế toán, một thuộc tính cố hữu của kế toán và nằm ngay trong hoạt động của kế toán. Trong khi đó, kiểm toán luôn là một hoạt động độc lập với kế toán. Quan điểm này mang tính truyền thống, đồng thời nó chỉ tồn tại trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Quan điểm 2: kiểm toán được hiểu theo đúng thời cuộc của nó, đó là phát sinh cùng thời với cơ chế thị trường. Theo quan điểm này, người ta thường dẫn ra quan niệm của các chuyên gia kiểm toán Hoa Kỳ hay của Vương quốc Anh: “Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan”(2). Quan điểm 3: là một quan điểm hiện đại về kiểm toán. Theo quan điểm này, phạm vi kiểm toán rất rộng, bao gồm bốn lĩnh vực: kiểm toán thông tin(Information audit), kiểm toán quy tắc( Regularity audit), kiểm toán hiệu quả( Efficiency audit), kiểm toán hiệu năng( Effectiveness audit).. 1.1.2. Bản chất của kiểm toán tài chính Các quan điểm nói trên không hoàn toàn đối lập, mâu thuẫn và khác nhau mà là phản ánh quá trình phát triển của cả thực tiễn và lý luận kiểm toán. Cũng như nguyên lý về sự phát triển trong triết học khẳng định: “Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật”(3). Có thể đi đến kết luận rằng, bản chất của kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực. 1.1.3.Đối tượng và cách tiếp cận trong kiểm toán tài chính * Đối tượng kiểm toán tài chính Đối tượng kiểm toán là các hoạt động cần kiểm toán. Để xác minh tính trung thực, hợp lý của các khoản mục trên Báo cáo tài chính thì kiểm toán viên nhất thiết phải tiến hành đối chiếu các số dư tài khoản, thậm chí cả các chứng từ kế toán. Do đó đối tượng kiểm toán trước hết là các tài liệu kế toán. Cuối thế kỷ XX, ngoài lĩnh vực tài chính kế toán, kiểm toán còn quan tâm tới các lĩnh vực khác của quản lý như hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực: vốn, lao động, tài nguyên cũng như hiệu năng của các chương trình, dự án, nghiệp vụ, mục tiêu… Như vậy, các yếu tố cấu thành cơ bản của đối tượng kiểm toán là: Thực trạng hoạt động tài chính – đối tượng chung của kiểm toán; Thực trạng Tài sản và Nghiệp vụ tài chính – đối tượng cụ thể của kiểm toán; Tài liệu kế toán – đối tượng cụ thể của kiểm toán; Hiệu quả, hiệu năng – đối tượng cụ thể của kiểm toán. Đối tượng kiểm toán rất rộng được thể hiện trên nhiều khách thể khác nhau. Do đó muốn thực hiện tốt chức năng kiểm toán nhất thiết yêu cầu các KTV phải có nghệ thuật trong việc tổ chức thực hiện kiểm toán. * Cách tiếp cận kiểm toán tài chính Trong kiểm toán tài chính, thường có hai cách cơ bản để tiếp cận kiểm toán tài chính. Đó là phân theo khoản mục và phân theo chu trình. Phân theo khoản mục: là cách phân chia máy móc theo từng khoản mục hay nhóm các khoản mục vào một phần hành. Cách phân chia này đơn giản, giảm thời gian, chi phí nhưng hiệu quả không cao do tách những khoản mục ở vị trí khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Từ đó dẫn đến cái nhìn hạn chế của các KTV về sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các chu trình. VD như hàng tồn kho với giá vốn hàng bán, doanh thu với nghĩa vụ phải nộp ngân sách nhà nước(thuế)… Phân theo chu trình: Là cách phân chia dựa theo mối quan hệ chặt chẽ lẫn nhau giữa các khoản mục, các quá trình cấu thành các yếu tố trong một chu trình chung của hoạt động tài chính. Cách phân chia này hiệu quả hơn do được xuất phát từ mối quan hệ vốn có của các nghiệp vụ. Theo cách tiếp cận này, các phần hành cơ bản của kiểm toán tài chính gồm: Kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền Kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán Kiểm toán chu trình tiền lương và nhân viên Kiểm toán tiền Kiểm toán hàng tồn kho Kiểm toán tiếp nhận và hoàn trả vốn. 1.1.4.Chức năng của kiểm toán Từ bản chất của kiểm toán, người ta thấy được rằng: kiểm toán có chức năng nền tảng là xác minh và bày tỏ ý kiến. * Với chức năng xác minh: Chức năng này nhằm khẳng định tính trung thực của các tài liệu( thông tin), tính pháp lý trong việc thực hiện các nghiệp vụ cũng như lập các Báo cáo tài chính. Chức năng này được biểu hiện thành hai mặt: Xác minh độ tin cậy của các con số. Xác minh việc tuân thủ các quy định và tính hợp thức, hợp pháp của các biểu mẫu kế toán(gọi là xác minh quy tắc). * Với chức năng bày tỏ ý kiến: Chức năng này có thể được hiểu rộng với nghĩa cả kết luận về chất lượng thông tin và cả pháp lý, tư vấn qua xác minh. Nó được biểu hiện dưới hình thức tư vấn mà sản phẩm của hình thức này là thư quản lý (managerment letter). 1.1.5.Mục tiêu kiểm toán tài chính Là một loại hình kiểm toán, kiểm toán tài chính cũng thực hiện chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến về đối tượng kiểm toán. Đối tượng kiểm toán thì luôn chứa đựng những mối quan hệ về kinh tế và pháp lý phong phú, đa dạng. Do đó nên chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến cấn được xác minh thật khoa học. Mặt khác, ý kiến hay kết luận kiểm toán không chỉ phục vụ cho người lập hay người xác minh mà còn phục vụ cho người quan tâm đến tính trung thực, hợp pháp của BCTC. Chính vì vậy, kết luận này phải dựa trên bằng chứng đầy đủ, có hiệu lực voiứ chi phí kiểm toán thấp nhất. Để thực hiện cuộc kiểm toán đúng hướng và có hiệu quả cao, việc xác định hệ thống mục tiêu kiểm toán khoa học trên cơ sở các mối quan hệ sẵn có của đối tượng và của khách thể kiểm toán là thực sự cần thiết. Tầm quan trọng của nó đã được thể hiện rất cụ thể trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200(Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán BCTC). Chuẩn mực xác định: “Mục tiêu của kiểm toán BCTC là giúp cho KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng BCTC có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận, có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không. Mục tiêu kiểm toán tài chính còn giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị”. Đối với KTV hay các công ty kiểm toán, việc xác minh không chỉ dừng ở các mục tiêu chung mà phải cụ thể vào từng phần hành kiểm toán( hay chính là mục tiêu đặc thù). Do đó, hệ thống mục tiêu kiểm toán bao gồm cả những mục tiêu đặc thù. Mục tiêu kiểm toán chung được chia thành hai loại là: mục tiêu hợp lý chung và mục tiêu chung khác. Còn mục tiêu kiểm toán đặc thù được xác định trên cơ sở mục tiêu chung và đặc điểm của khoản mục hay phần hành, cùng với hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ theo dõi chúng. Nhìn chung, hệ thống mục tiêu kiểm toán đặc thù thường được đặt ra là: Mục tiêu hiệu lực Mục tiêu trọn vẹn Mục tiêu quyền và nghĩa vụ Mục tiêu định giá Mục tiêu phân loại và trình bày Mục tiêu chính xác cơ học 1.1.6. Phương pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính 1.1.6.1. Đặc điểm của kiểm toán tài chính với phương pháp kiểm toán Như chúng ta đã biết, mỗi loại kiểm toán khác nhau sẽ có những chức năng, đối tượng cụ thể khác nhau và quan hệ chủ thể, khách thể kiểm toán khác nhau. Chính vì thế, cách thức kết hợp các phương pháp kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ trong kiểm toán tài chính cũng có những điểm đặc thù. Trước hết, xét về chức năng của kiểm toán, kiểm toán tài chính hướng tới việc bày tỏ ý kiến trên cơ sở các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và phù hợp. Để đạt được các bằng chứng này, kiểm toán tài chính cần thực hiện các phương pháp cơ bản theo từng trường hợp cụ thể. Thông thường, nó thường được triển khai theo hướng kết hợp hoặc chi tiết thành các cách kiểm toán cụ thể, điều đó tùy vào tính huống cụ thể trong suốt quá trình kiểm toán. Đối tượng của kiểm toán tài chính là các báo cáo kế toán và các bảng tổng hợp tài chính khác. Các bảng này vừa chứa đựng những mối quan hệ kinh tế tổng quát, vừa phản ánh cụ thể từng loại tài sản, nguồn vốn…Do đó, kiểm toán tài chính thường là kiểm toán liên kết và hình thành những thủ tục với việc sử dụng liên hoàn các phương pháp kiểm toán cơ bản để đưa ra ý kiến đúng đắn, trung thực về các báo cáo và bảng này. Tác động đến kỹ thuật kiểm toán tài chính còn có mối liên hệ giữa nội kiểm và ngoại kiểm trên quan điểm hiệu quả. Để đảm bảo tính hiệu quả trong kiểm toán tài chính thì trình tự phổ biến được thực hiện là tiến hành kiểm toán theo trình tự ngược với trình tự kế toán. 1.1.6.2.Các trắc nghiệm trong kiểm toán tài chính Trước hết, chúng ta cần hiểu trắc nghiệm là gì?. Trong kiểm toán tài chính, người ta thường hiểu trắc nghiệm: “Trắc nghiệm được hiểu là các cách thức xác định trong việc vận dụng các phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ vào xác minh các nghiệp vụ, các số dư tài khoản hoặc các khoản mục cấu thành bảng khai tài chính”(4). Từ các cách thức vận dụng đó hình thành nên các loại trắc nghiệm khác nhau, mà cụ thể là hình thành ba loại trắc nghiệm cơ bản: trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm trực tiếp số dư và trắc nghiệm phân tích. 1.2.Đặc điểm khoản mục doanh thu bán hàng& cung cấp dịch vụ ảnh hưởng đến vấn đề kiểm toán Báo cáo tài chính 1.2.1.Những vấn đề chung về doanh thu bán hàng&cung cấp dịch vụ 1.2.1.1.Khái niệm và phân loại doanh thu 1.2.1.1.1. Khái niệm doanh thu Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp của ba yếu tố: lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động để tạo ra những sản phẩm cần thiết phục vụ nhu cầu của con người. Sản phẩm đó để bán tiêu dùng hoặc là đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khác. Qua tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp sẽ ghi nhận doanh thu bán hàng, cung cấp dịch vụ. Như vậy, khâu tiêu thụ là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những chỉ tiêu thể hiện rõ nét khả năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Kết quả của khâu này được thể hiện trên Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, cụ thể ở chỉ tiêu doanh thu bán hàng, cung cấp dịch vụ và doanh thu thuần. Trong cuốn Lý thuyết kinh tế học của David Begg, ông đã đưa ra một cách nhìn cụ thể về vai trò của doanh thu đối với các quyết định kinh tế của doanh nghiệp cũng như những người quan tâm. Ông đã đưa ra một khái niệm rất đơn giản, ngắn gọn mà súc tích về doanh thu. Đó là: “Doanh thu của một hãng là số tiền mà nó kiếm được qua việc bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ trong một giai đoạn nhất định ví như trong một năm”(5). Trong cuốn Tư bản của Mác, Người cho rằng sản phẩm không chỉ là hàng hóa, mà là hàng hóa mang trong mình một giá trị thặng dư. Giá trị của nó bao gồm tư liệu sản xuất và sức lao động hao phí cộng với giá trị thặng dư do tư bản sản xuất đẻ ra, hay chính là C+V+M. Khi nhà tư bản tiêu thụ hàng hóa thì nhà tư bản thu được doanh thu. Như vậy, “Doanh thu là kết quả của quá trình tiêu thụ, đó là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa. Qua tiêu thụ, sản phẩm chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị”(6). Theo Chuẩn mực Kế toán Việt Nam số 14 - Doanh thu và thu nhập khác thì: “Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu”. Thuật ngữ Doanh thu được sử dụng chỉ bao gồm tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được. Các khoản thu hộ không phải là nguồn lợi ích kinh tế, không làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp sẽ không được coi là doanh thu (Ví dụ: Đại lý thu hộ tiền bán hàng cho đơn vị gửu đại lý, thì doanh thu của người nhận đại lý chỉ là tiền hoa hồng đại lý được hưởng và hạch toán vào tài khoản 511 của bên đại lý). Các khoản góp vốn của cổ đông hoặc chủ sở hữu làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhưng không là doanh thu. Khái niệm trên đã cho ta thấy rõ quan niệm về doanh thu theo cả lý luận và thực tiễn hoạt động kế toán, kiểm toán. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được xác định bằng giá trị hợp lý của các khoản đã thu hoặc sẽ thu được sau khi trừ các khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán và hàng bán bị trả lại. 1.2.1.1.2. Phân loại doanh thu Để hiểu rõ hơn nữa về doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ thì cần có sự phân loại một cách cụ thể. Phân loại doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ giúp cho việc xác định doanh thu của từng loại được nhìn nhận và tính toán một cách chính xác. Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14, Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận sau: * Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ(Kế toán sử dụng TK 511-Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ): Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được phản ánh từ các giao dịch và các nghiệp vụ sau: Bán hàng: Bán các sản phẩm, thành phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra và bán hàng hóa mua vào Cung cấp dịch vụ: Thực hiện công việc đã thỏa thuận theo hợp đồng trong một hoặc nhiều kỳ kế toán như cung cấp dịch vụ vận chuyển, đi lại, dịch vụ vệ sinh công nghiệp, dịch vụ chăm sóc cỏ… Doanh thu BH&CCDV là toàn bộ lợi ích thu được hoặc sẽ thu được từ các giao dịch hay nghiệp vụ phát sinh doanh thu như bán sản phẩm, thành phẩm, hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho khách hàng gồm cả những khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán(nếu có). Nếu doanh nghiệp áp dụng việc tính thuế GTGT phải nộp theo phương pháp khấu trừ thì doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là doanh thu chưa có thuế, đồng thời doanh nghiệp sử dụng “Hóa đơn GTGT”. Nếu doanh nghiệp áp dụng việc tính thuế GTGT phải nộp theo phương pháp trực tiếp thì doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là doanh thu có tính thuế, đồng thời doanh nghiệp sử dụng “Hóa đơn bán hàng”. Đối với sản phẩm, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, hoặc thuế xuất nhập khẩu thì doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là tổng giá thanh toán. Doanh thu BH&CCDV mà doanh nghiệp thực hiện trong kỳ kế toán có thể thấp hơn doanh thu BH&CCDV ghi nhận ban đầu do các nguyên nhân như: Chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại hoặc nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp được tính trên doanh thu BH&CCDV thực tế thực hiện. Nếu doanh nghiệp có doanh thu BH&CCDV bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ngoại tệ ra Đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ hoặc tỷ giá thực tế tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ. * Doanh thu tiêu thụ nội bộ(512): Tài khoản này phản ánh doanh thu của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ trong một kỳ kế toán của số lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ tiêu thụ nội bộ giữa các đơn vị trực thuộc trong cùng một công ty, tổng công ty… * Các khoản giảm trừ doanh thu Chiết khấu thương mại: là số tiền mà doanh nghiệp giảm giá niêm yết cho khách hàng mua với khối lượng lớn. Giảm giá hàng bán: là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hóa đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách, giao hàng không đúng thời gian, địa điểm trong hợp đồng… Hàng bán bị trả lại: là số hàng đã được tính là tiêu thụ nhưng bị người mua trả lại, từ chối do làm không đúng quy cách, phẩm chất…như đã quy định điều khoản ở trong hợp đồng hay như đã thỏa thuận. Ngoài ra còn có những khoản được ghi nhận là các khoản giảm trừ doanh thu như: thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu. 1.2.1.2.Nguyên tắc ghi nhận doanh thu Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là
Luận văn liên quan