Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, toàn cầu hoá và xu thế hội nhập đã làm thay đổi cơ bản những diễn biến của kinh tế thế giới. Với sự phát triển nhanh chóng từng ngày của các tổ chức kinh tế, hàng trăm thậm chí hàng nghìn công ty liên doanh, Công ty 100% vốn nước ngoài,…đang hoạt động và mỗi ngày mỗi nhiều hơn, công tác quản lý ngày càng trở nên phức tạp đòi hỏi chúng ta cần coi trọng công tác kiểm toán, phải xem kiểm toán là một công cụ quan trọng và cần thiết để giúp cho nền kinh tế đất nước tránh được những thiệt hại lớn lao.
Là một bộ phận của nền kinh tế, việc hình thành và phát triển thị trường dịch vụ kế toán – kiểm toán vừa là tất yếu khách quan; vừa là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế – tài chính và đóng vai trò tích cực trong việc phát triển nền kinh tế xã hội. Xuất phát từ lợi ích thiết yếu đó của hoạt động dịch vụ kế toán – kiểm toán, trong những năm gần đây hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán độc lập nói riêng không ngừng tiến bộ, ngày càng phát triển và khẳng định vị trí vững chắc của mình trong khu vực và trên thế giới. Đó cũng là xu thế phát triển tất yếu của một nền kinh tế đổi mới và đang trên đà phát triển như nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Toàn bộ một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính là sự tổng hợp kết quả của các phần hành, các chu trình khác nhau, từ giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tới giai đoạn kết thúc kiểm toán và phát hành Báo cáo. Mỗi phần hành, chu trình là một quá trình kiểm toán riêng biệt, song chúng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau trong suốt quá trình của cuộc kiểm toán. Trong đó, việc hoàn thiện quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính nói chung và quy trình kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất nói riêng là vấn đề quan trọng hàng đầu của bất kỳ một Công ty kiểm toán nào hiện nay, bởi khoản mục chi phí sản xuất là một khoản mục mang tính tổng hợp trên Báo cáo tài chính, ảnh hưởng rất nhiều đến các khoản mục khác và đến kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị; và nó cũng chính là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của Công ty kiểm toán trong nền kinh tế thị trường có sức cạnh tranh mạnh mẽ, khốc liệt trong thị trường hiện nay.
. Nội dung chính của chuyên đề, ngoài phần mở đầu và phần kết luận bao gồm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán Báo cáo tài chính.
Chương II: Thực tế kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán BCTC do Công ty VAE thực hiện.
Chương III: Một số nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản mục CPSX trong kiểm toán BCTC tại Công ty VAE.
128 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 3386 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán tài chính do Công ty CP Kiểm toán và Định giá VN thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, toàn cầu hoá và xu thế hội nhập đã làm thay đổi cơ bản những diễn biến của kinh tế thế giới. Với sự phát triển nhanh chóng từng ngày của các tổ chức kinh tế, hàng trăm thậm chí hàng nghìn công ty liên doanh, Công ty 100% vốn nước ngoài,…đang hoạt động và mỗi ngày mỗi nhiều hơn, công tác quản lý ngày càng trở nên phức tạp đòi hỏi chúng ta cần coi trọng công tác kiểm toán, phải xem kiểm toán là một công cụ quan trọng và cần thiết để giúp cho nền kinh tế đất nước tránh được những thiệt hại lớn lao.
Là một bộ phận của nền kinh tế, việc hình thành và phát triển thị trường dịch vụ kế toán – kiểm toán vừa là tất yếu khách quan; vừa là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế – tài chính và đóng vai trò tích cực trong việc phát triển nền kinh tế xã hội. Xuất phát từ lợi ích thiết yếu đó của hoạt động dịch vụ kế toán – kiểm toán, trong những năm gần đây hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán độc lập nói riêng không ngừng tiến bộ, ngày càng phát triển và khẳng định vị trí vững chắc của mình trong khu vực và trên thế giới. Đó cũng là xu thế phát triển tất yếu của một nền kinh tế đổi mới và đang trên đà phát triển như nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Toàn bộ một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính là sự tổng hợp kết quả của các phần hành, các chu trình khác nhau, từ giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tới giai đoạn kết thúc kiểm toán và phát hành Báo cáo. Mỗi phần hành, chu trình là một quá trình kiểm toán riêng biệt, song chúng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau trong suốt quá trình của cuộc kiểm toán. Trong đó, việc hoàn thiện quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính nói chung và quy trình kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất nói riêng là vấn đề quan trọng hàng đầu của bất kỳ một Công ty kiểm toán nào hiện nay, bởi khoản mục chi phí sản xuất là một khoản mục mang tính tổng hợp trên Báo cáo tài chính, ảnh hưởng rất nhiều đến các khoản mục khác và đến kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị; và nó cũng chính là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của Công ty kiểm toán trong nền kinh tế thị trường có sức cạnh tranh mạnh mẽ, khốc liệt trong thị trường hiện nay.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam, cùng với sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Bùi Thị Minh Hải và các cô chú lãnh đạo, các anh chị trong Công ty, em đã chọn đề tài: “Kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam thực hiện” để nghiên cứu. Nội dung chính của chuyên đề, ngoài phần mở đầu và phần kết luận bao gồm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán Báo cáo tài chính.
Chương II: Thực tế kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán BCTC do Công ty VAE thực hiện.
Chương III: Một số nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản mục CPSX trong kiểm toán BCTC tại Công ty VAE.
Trong quá trình thực hiện chuyên đề này, do hạn chế về kiến thức thực tế cũng như thời gian nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ của các thầy cô giáo cùng tất cả những người quan tâm để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn trường Đại học Kinh tế quốc dân đã tạo điều kiện cho sinh viên chúng em có một thời gian thực tập bổ ích. Cảm ơn cô giáo, Ban lãnh đạo và toàn thể các anh chị trong Công ty VAE cùng tất cả các thầy cô giáo đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I: Lý luận chung về kiểm toán khoản mục chi phí sản xuất trong kiểm toán báo cáo tài chính.
I. Khoản mục chi phí sản xuất trong mối quan hệ với kiểm toán báo cáo tài chính.
1. Đặc điểm chi phí sản xuất với vấn đề kiểm toán.
1.1. Khái niệm, bản chất và nội dung kinh tế của chi phí.
“Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm)”
Mọi hoạt động và phát triển của xã hội loài người luôn gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động, tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Hay nói cách khác, quá trình sản xuất là quá trình kết hợp cả ba yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Sự kết hợp cả ba yếu tố này trong quá trình sản xuất sẽ tạo ra những sản phẩm, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của con người. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
Với mỗi doanh nghiệp, chi phí luôn gắn liền với mỗi kỳ sản xuất và phải là chi phí thực. Vì vậy, cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí của kỳ hạch toán là những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tuy chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Trên thực tế, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng tính vào chi phí kỳ sau ( như: chi mua nguyên vật liệu, vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng,…); có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng chưa được chi tiêu ( các khoản phải trả). Như vậy, chi phí và chi tiêu không những khác nhau về mặt lượng mà còn khác nhau về thời gian. Sở dĩ có sự khác biệt như vậy là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán.
Như vậy, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết mà doanh nghiệp đã chi ra trong một kỳ kinh doanh nhất định. Trong đó:
Chi phí về lao động sống là các chi phí về tiền lương và các khoản trích theo lương được tính vào chi phí.
Chi phí về lao động vật hoá bao gồm các chi phí về nguyên vật liệu, chi phí điện nước, chi phí khấu hao,…
Nói một cách khác, thực chất chi phí là sự dịch chuyển vốn – chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá ( sản phẩm, lao vụ, dịch vụ).
1.2. Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất có rất nhiều loại, nhiều khoản khác nhau cả về nội dung, tính chất, công dụng, vai trò và vị trí. Xuất phát từ các mục tiêu và yêu cầu khác nhau của hoạt động quản lý, CPSX có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức: theo nội dung kinh tế, theo công dụng, theo vị trí, theo mục đích sử dụng,…Một trong những cách phân loại được sử dụng phổ biến nhất trong hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trên góc độ kế toán tài chính là phân theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Theo quy định hiện hành, CPSX được cấu thành bao gồm các khoản:
( Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (NVLTT): Bao gồm chi phí về các loại nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu,…tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
( Chi phí nhân công trực tiếp (NCTT): Bao gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), kinh phí công đoàn (KPCĐ) trên tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất theo tỷ lệ quy định.
( Chi phí sản xuất chung (SXC): Là toàn bộ chi phí dùng vào việc quản lý và phục vụ sản xuất chung tại bộ phận sản xuất, bao gồm các khoản sau:
Chi phí vật liệu: Là chi phí vật liệu sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung như: vật liệu dùng để sữa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định (TSCĐ), dùng cho công tác quản lý phân xưởng,…
Chi phí dụng cụ sản xuất: Là chi phí về các loại công cụ, dụng cụ dùng cho nhu cầu sản xuất chung ở phân xưởng như: Dụng cụ cầm tay, dụng cụ bảo hộ lao động,…
Chi phí khấu hao tài sản cố định (TSCĐ): Bao gồm số khấu hao về tài sản cố định hữu hình, TSCĐ vô hình và TSCĐ thuê tài chính sử dụng ở phân xưởng sản xuất như khấu hao máy móc, thiết bị sản xuất, khấu hao nhà xưởng,…
Chi phí nhân viên phân xưởng: Bao gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo tỷ lệ tiền lương phát sinh của nhân viên phân xưởng.
Chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền: Bao gồm các khoản chi về dịch vụ mua ngoài, thuê ngoài để sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung của phân xưởng như: Chi phí về điện, nước, điện thoại,…và các khoản chi phí khác phát sinh trong phạm vi phân xưởng.
Cách phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm này có tác dụng phục vụ đắc lực cho yêu cầu quản lý CPSX theo định mức, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tính giá thành sản phẩm, là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và định mức CPSX cho kỳ sau. Ngoài ra, cách phân loại này còn cung cấp các thông tin về cơ cấu và sự biến động của từng khoản mục chi phí trong việc tính giá thành giúp cho nhà quản lý nhanh chóng nắm bắt thông tin để từ đó đề ra các biện pháp quản lý hữu hiệu nhất.
Nói đến CPSX không thể không đề cập tới mối quan hệ giữa CPSX và giá thành sản phẩm. Chi phí và giá thành là hai mặt khác nhau của quá trình sản xuất. CPSX phản ánh mặt hao phí sản xuất, giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất gắn liền với khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ. Mối quan hệ đó có thể được biểu diễn qua công thức sau:
Z = D đk + C – D ck
Trong đó: Z : Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành.
C : CPSX phát sinh trong kỳ.
D đk, D ck: CPSX dở dang đầu kỳ, cuối kỳ.
Như vậy, CPSX là căn cứ, là cơ sở để xác định chỉ tiêu giá thành.
Tóm lại, qua tìm hiểu về đặc điểm chi phí sản xuất khi kiểm toán cần quan tâm các vấn đề sau:
Xem xét việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất, đối tượng hạch toán chi phí, tính phù hợp của phương pháp kế toán áp dụng, tính có thật và hợp lý của số liệu.
Như ta đã biết, CPSX nằm trong giai đoạn sản xuất và kết quả của giai đoạn này thể hiện ở thành phẩm, sản phẩm dở dang. Do đó, khi kiểm toán ngoài việc kiểm toán các yếu tố chi phí chính: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, Chi phí nhân công trực tiếp, Chi phí sản xuất chung thì kiểm toán viên còn phải kiểm toán đối với CPSX kinh doanh dở dang và việc tính giá thành sản phẩm. Kiểm toán viên cần phải xem xét các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang và phương pháp tính giá thành có phù hợp hay không, đồng thời xem xét tính nhất quán các phương pháp đó.
2. Kiểm soát nội bộ đối với chi phí sản xuất.
Trong mọi hoạt động của doanh nghiệp, chức năng kiểm tra kiểm soát luôn giữ vai trò quan trọng trong quá trình quản lý và được thực hiện chủ yếu bởi hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB). Theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC): “Hệ thống KSNB là một hệ thống các chính sách, các thủ tục nhằm bốn mục tiêu sau: Bảo vệ tài sản của đơn vị; bảo đảm độ tin cậy của các thông tin, bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý, bảo đảm hiệu quả các hoạt động”
Với các doanh nghiệp sản xuất, CPSX là một khoản chi phí chiếm tỷ trọng tương đối lớn trên Báo cáo tài chính của doanh nghiệp; để tồn tại và phát triển đòi hỏi doanh nghiệp phải có hệ thống KSNB hữu hiệu đối với các hoạt động đó đặc biệt là với CPSX. Mặt khác, đối với kiểm toán chi phí nói riêng kiểm toán Báo cáo tài chính (BCTC) nói chung, việc nghiên cứu và đánh giá về hệ thống KSNB của khách hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nếu kiểm toán viên (KTV) đánh giá hệ thống KSNB của khách hàng hoạt động có hiệu lực thì KTV có thể kế thừa các kết quả của hệ thống đó trong quá trình thực hiện kiểm toán. Hệ thống KSNB đối với chi phí sản xuất tại các doanh nghiệp thường bao gồm các yếu tố sau:
( Môi trường kiểm soát.
“Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ nhân tố bên trong và bên ngoài đơn vị có tính chất môi trường tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lý dữ liệu của các loại hình KSNB”. Các nhân tố chủ yếu tác động đến CPSX là:
Bộ phận quản lý sản xuất: Là việc phân chia chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của từng người, từng bộ phận trong đơn vị. Cụ thể, bộ phận quản lý sản xuất phải bảo đảm xuyên suốt từ trên xuống dưới và phải được thiết lập từ bộ phận quản lý cấp cao như: Phòng kế hoạch, phòng quản lý sản xuất, phòng kiểm tra chất lượng , các phân xưởng, tổ đội sản xuất,…Các bộ phận này phải được phân định quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng sao cho vừa phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh, quy trình công nghệ, trình độ quản lý vừa phải hướng tới mục tiêu chung của toàn doanh nghiệp.
Các chính sách về quản lý sản xuất: trong doanh nghiệp được xây dựng từ giai đoạn cung cấp các nguồn lực cho sản xuất đến giai đoạn kết thúc sản xuất, bao gồm:
Chính sách về vật tư cho sản xuất như: vật tư xuất kho phải có phiếu yêu cầu sử dụng vật tư và có sự phê chuẩn của bộ phận sản xuất,…
Chính sách về tính lương cho công nhân viên như: quy định rõ ràng, công khai về mức lương, mức thưởng, các khoản phụ cấp, thời gian trả lương…Các chính sách này phải đảm bảo công bằng, hợp lý cho tất cả công nhân viên.
Đối với các doanh nghiệp lớn thì cần phải xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn để kiểm soát chi phí. Doanh nghiệp phải xây được định mức kinh tế kỹ thuật về tiêu hao vật tư và lao động cho từng loại sản phẩm và từng công đoạn chế biến sản phẩm. Các định mức chi phí này luôn phải được thiết lập phù hợp với dây chuyền công nghệ và được theo dõi định kỳ bởi bộ phận quản lý sản xuất. Các chi phí sản xuất thực tế phát sinh được so sánh với định mức nhằm phát hiện những biến động bất thường để từ đó đưa ra những quyết định kịp thời.
Công tác kế hoạch: Doanh nghiệp nên xây dựng hệ thống kế hoạch, dự toán đối với chi phí như: kế hoạch sản xuất, kế hoạch giá thành, kế hoạch tài chính, dự toán chi phí,…Nếu việc lập và thực hiện kế hoạch được tiến hành khoa học và nghiêm túc thì hệ thống kế hoạch và dự toán đó sẽ trở thành công cụ kiểm soát rất hữu hiệu.
( Hệ thống kế toán.
Để quản lý và kiểm soát chặt chẽ các chi phí phát sinh trong doanh nghiệp, nhà quản lý cần phải có một hệ thống thông tin đầy đủ về chi phí; mà chức năng của kế toán là cung cấp và truyền đạt các thông tin kinh tế về một tổ chức cho các đối tượng sử dụng khác. Do đó, hệ thống kế toán đóng một vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát các chi phí nói chung, CPSX nói riêng bao gồm: hệ thống các chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ kế toán chi phí,…
( Hệ thống chứng từ kế toán:
Chứng từ kế toán là vật mang tin, chứng minh cho nghiệp vụ kinh tế đã thực sự phát sinh và hoàn thành. Các chứng từ sử dụng trong hạch toán CPSX bao gồm:
Chứng từ vật tư: Phiếu yêu cầu sử dụng vật tư, phiếu xuất kho, bảng kê các hoá đơn chứng từ mua nguyên vật liệu,…
Chứng từ về tiền lương: Bảng chấm công, Bảng thanh toán tiền lương, tiền thưởng, BHXH,…
Chứng từ về chi phí khấu hao TSCĐ: Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ,…
Chứng từ dịch vụ mua ngoài: Hoá dơn tiền điện, tiền nước,…
( Phương thức hạch toán CPSX:
Các nghiệp vụ kinh tế liên quan đến chi phí sản xuất phát sinh phải được hạch toán đúng vào tài khoản trên cơ sở quy trình hạch toán như sau:
Sơ đồ 1.1:Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất
( Hệ thống sổ kế toán:
Sổ kế toán về chi phí sản xuất bao gồm hệ thống sổ tổng hợp và sổ chi tiết. Hệ thống sổ chi tiết gồm: Sổ chi tiết các tài khoản (TK) 621, 622, 627, 154,… được mở chi tiết cho từng đối tượng hạch toán CPSX. Kế toán tuỳ thuộc vào đối tượng hạch toán CPSX để xác định số lượng sổ cần mở, kết cấu của từng loại sổ. Hệ thống sổ tổng hợp tuỳ thuộc vào hình thức sổ kế toán mà doanh nghiệp áp dụng ( Nhật ký chung, Chứng từ ghi sổ, Nhật ký chứng từ, Nhật ký sổ cái).
( Các nguyên tắc cơ bản trong hạch toán CPSX:
Trong quá trình hạch toán CPSX, doanh nghiệp phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận trong chuẩn mực số 01 do Hội đồng chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành, đặc biệt là bốn nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc chi phí: Việc tính toán chi phí và trình bày trên Báo cáo tài chính phải dựa trên giá thực tế mà không quan tâm đến giá thị trường.
Nguyên tắc nhất quán: Việc sử dụng các phương pháp tính giá, phương pháp hạch toán chi phí phải thống nhất giữa các kỳ.
Nguyên tắc phù hợp: Hạch toán chi phí phải đúng đối tượng chịu chi phí, đúng thời kỳ và phù hợp với doanh thu trong kỳ, chi phí tương ứng với doanh thu trong kỳ gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu và chi phí của các kỳ trước hoặc chi phí phải trả nhưng liên quan đến doanh thu của kỳ đó.
Nguyên tắc thận trọng: Việc hạch toán CPSX phải đảm bảo sự an toàn khi tính các khoản chi phí và thu nhập, trong đó thu nhập phải được đảm bảo chắc chắn, chi phí phải được tính tối đa.
( Các thủ tục kiểm soát đối với CPSX.
Các thủ tục kiểm soát chủ yếu đối với khoản mục chi phí sản xuất trong doanh nghiệp được thiết lập dựa trên ba nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc phân công, phân nhiệm:Theo nguyên tắc này, trách nhiệm và công việc cần được phân chia cụ thể cho nhiều bộ phận và cho nhiều người trong bộ phận; không cho phép cá nhân nào quản lý nghiệp vụ từ khâu đầu đến khâu cuối. Cụ thể là phải phân công công việc giữa chức năng mua hàng, chức năng phê duyệt, chức năng nhập kho, ghi sổ…để tránh tình trạng gian lận, đồng thời thông qua đó các chức năng có thể kiểm soát chéo lẫn nhau.
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: Nguyên tắc này quy định sự cách ly thích hợp về trách nhiệm trong các nghiệp vụ có liên quan nhằm ngăn ngừa các sai phạm và hành vi lạm dụng quyền hạn. Cụ thể, cần tách bạch giữa công tác ghi sổ, công tác quản lý vật tư, tài sản, theo dõi lao động và công tác thu chi trong doanh nghiệp.
Nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn: Theo sự uỷ quyền của nhà quản lý, các cấp dưới được giao cho giải quyết một số công việc trong một phạm vi nhất định. Tất cả các nghiệp vụ về thu, chi, xuất, nhập vật tư, quyết định các vấn đề về tiền lương, tiền thưởng,…phải được cấp có thẩm quyền phê chuẩn.
( Kiểm toán nội bộ.
Là một trong những nhân tố cơ bản nhất của hệ thống KSNB, bộ phận này cung cấp một sự quan sát, đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp trong đó có hoạt động sản xuất. Mối quan tâm chủ yếu của KTV nội bộ trước hết là phải xác định xem liệu có tồn tại một cơ sở phù hợp cho hoạt động kiểm soát chi phí. Thứ hai là, liệu cơ sở đó có đang được quản lý có hiệu quả hay không? Bộ phận này hoạt động hữu hiệu sẽ giúp cho doanh nghiệp có được những thông tin chính xác, kịp thời về tình hình sản xuất của doanh nghiệp, quản lý được CPSX và giá thành sản phẩm từ đó giúp nhà quản lý đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có kiểm toán nội bộ; mà đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ hệ thống KSNB được thay thế bởi bộ phận kiểm tra, kiểm soát.
Hiểu được những đặc điểm của CPSX và KSNB đối với CPSX không chỉ giúp cho các nhà quản lý kiểm soát được chặt chẽ các CPSX phát sinh trong đơn vị; từ đó đề ra các quyết định đúng đắn mà còn giúp KTV nâng cao hiệu quả cũng như chất lượng kiểm toán BCTC trong kiểm toán BCTC của các doanh nghiệp.
3. Vai trò của kiểm toán khoản mục CPSX trong kiểm toán BCTC.
( Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với các khoản mục trên Báo cáo kết quả kinh doanh.
Chi phí nói chung và chi phí sản xuất nói riêng đóng vai trò nhất định trong Báo cáo tài chính và là một trong những yếu tố rất quan trọng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí phát sinh và biến đổi liên tục trong quá trình phát triển của doanh nghiệp, gắn liền với sự tồn tại của doanh nghiệp. Mặc dù CPSX chưa đủ để nói lên hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhưng nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh và việc tính toán các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính. Cụ thể:
Trên Báo cáo kết quả sản