Những năm gần đây, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, theo xu thế mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đáp ứng yêu cầu thông tin tài chính của các doanh nghiệp phải công khai, minh bạch và đáng tin cậy, hoạt động kiểm toán độc lập đã ra đời và ngày càng phát triển.
Kiểm toán không chỉ mang lại niềm tin cho những người sử dụng các thông tin tài chính mà còn là công cụ hữu hiệu giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Đối với Nhà nước, hoạt động kiểm toán cũng góp phần làm lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, giảm thất thoát trong chi tiêu. Đồng thời, giúp các cơ quan hữu quan xác định đúng trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, từ đó có những chính sách hợp lý khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp.
Một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính là sự tổng hợp kết quả của các phần hành, các chu trình kiểm toán riêng biệt từ việc lập kế hoạch kiểm toán cho tới giai đoạn kết thúc kiểm toán và lập báo cáo. Mỗi một phần hành, một quy trình là một quá trình riêng biệt nhưng chúng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau, trong cả quy trình kiểm toán báo cáo tài chính. Trong đó, kiểm toán chi phí hoạt động là một phần không thể thiếu được đối với bất kỳ một cuộc kiểm toán nào bởi khoản mục chi phí này ảnh hưởng rất nhiều tới kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Nội dung luận văn ngoài phần lời nói đầu và kết luận bao gồm các phần chính sau:
Phần I: Cơ sở lý luận của kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính.
Phần II: Thực trạng kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán Việt Nam thực hiện.
Phần III: Một số nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán Việt Nam thực hiện.
108 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 3818 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Quy trình kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán tài chính do Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Những năm gần đây, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, theo xu thế mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đáp ứng yêu cầu thông tin tài chính của các doanh nghiệp phải công khai, minh bạch và đáng tin cậy, hoạt động kiểm toán độc lập đã ra đời và ngày càng phát triển.
Kiểm toán không chỉ mang lại niềm tin cho những người sử dụng các thông tin tài chính mà còn là công cụ hữu hiệu giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Đối với Nhà nước, hoạt động kiểm toán cũng góp phần làm lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, giảm thất thoát trong chi tiêu. Đồng thời, giúp các cơ quan hữu quan xác định đúng trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, từ đó có những chính sách hợp lý khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp.
Một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính là sự tổng hợp kết quả của các phần hành, các chu trình kiểm toán riêng biệt từ việc lập kế hoạch kiểm toán cho tới giai đoạn kết thúc kiểm toán và lập báo cáo. Mỗi một phần hành, một quy trình là một quá trình riêng biệt nhưng chúng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau, trong cả quy trình kiểm toán báo cáo tài chính. Trong đó, kiểm toán chi phí hoạt động là một phần không thể thiếu được đối với bất kỳ một cuộc kiểm toán nào bởi khoản mục chi phí này ảnh hưởng rất nhiều tới kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, sau thời gian thực tập tại Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài: "Quy trình kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) thực hiện".
Nội dung luận văn ngoài phần lời nói đầu và kết luận bao gồm các phần chính sau:
Phần I: Cơ sở lý luận của kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính.
Phần II: Thực trạng kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán Việt Nam thực hiện.
Phần III: Một số nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán Việt Nam thực hiện.
Trong khuôn khổ bài viết, do lượng kiến thức cũng như thời gian hạn chế nên luận văn này sẽ không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Do đó, em kính mong nhận được sự góp ý của các Thầy, Cô giáo cũng như những người quan tâm để đề tài được hoàn thiện hơn nữa.
Phần I:
Cơ sở lý luận của kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính
I. Khái niệm, nội dung vai trò của chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính
1. Khái niệm chi phí hoạt động
- Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các chi phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (quý, tháng, năm).
Căn cứ vào chức năng của hoạt động trong quá trình kinh doanh và chi phí liên quan đến việc thực hiện các chức năng, người ta chia chi phí sản xuất kinh doanh thành 3 loại:
Chi phí sản xuất: gồm những chi phí liên quan đến việc chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng.
Chi phí tiêu thụ: gồm các chi phí liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ; xúc tiến thương mại; phát triển thị trường của doanh nghiệp.
Chi phí quản lý: gồm các chi phí quản lý kinh doanh, hành chính và những chi phí chung liên quan đến hoạt động của toàn doanh nghiệp mà không tách riêng ra được cho bất kỳ hoạt động nào.
Trong ba loại chi phí thuộc chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ngoại trừ chi phí sản xuất còn các loại chi phí khác được gọi chung là chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Nghĩa là, chi phí hoạt động của doanh nghiệp bao gồm chi phí tiêu thụ (còn gọi là chi phí bán hàng) và chi phí quản lý. Nói cách khác, chi phí hoạt động chính là toàn bộ các chi phí liên quan đến hoạt động quản lý nói chung của một doanh nghiệp trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Một điểm đáng chú ý khi tìm hiểu về chi phí là cần phân biệt sự khác nhau giữa chi tiêu và chi phí. Sở dĩ vậy vì chi tiêu và chi phí là hai khái niệm khác nhau nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau nên người ta thường nhầm lẫn chúng với nhau. Từ khái niệm nói trên về chi phí, có thể thấy, chỉ được tính vào chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải toàn bộ mọi khoản chi trong kỳ hạch toán.
Trong khi đó, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp không kể khoản chi đó nhằm mục đích nào.
Như vậy chi phí và chi tiêu không những khác về lượng mà còn khác về thời gian, có những khoản chi tiêu nhưng không được tính vào chi phí (chi mua nguyên vật liệu nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí phải trả). Do đó khi nghiên cứu, kiểm tra nội dung các khoản chi phí cần nắm rõ sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí để đảm bảo các khoản chi phí là hợp lý và đúng bản chất.
2. Nội dung của chi phí hoạt động và các nguyên tắc hoạch toán kế toán.
2.1. Nội dung của chi phí hoạt động.
2.1.1. Nội dung của chi phí bán hàng.
Chi phí bán hàng bao gồm: chi phí nhân viên bán hàng, chi phí vật liệu bao bì, chi phí dụng cụ, đồ dùng bán hàng, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác.
Trong đó:
Chi phí nhân viên bao gồm: Tiền lương, tiền công, các khoản trích Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Kinh phí công đoàn theo tỷ lệ quy định trên tổng tiền lương nhân viên bán hàng phải trả trong kỳ.
Chi phí vật liệu bao gồm: Chi phí đóng gói sản phẩm hàng hoá, chi phí bảo quản, vận chuyển hàng hoá, chi phí sửa chữa tài sản cố định, chi phí bảo quản tài sản cố định.
Chi phí dụng cụ, đồ dùng bán hàng : chi phí phục vụ cho quá trình tiêu thụ hàng hoá như chi phí dụng cụ đo lường, phương tiện thanh toán.
Chi phí khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ chi phí về khấu hao tài sản cố định cho bộ phận bán hàng.
Chi phí bảo hành: là chi phí liên quan đến việc bảo hành sản phẩm, hàng hoá thực tế phát sinh trong trường hợp không trích trước.
Chi phí dịch vụ mua ngoài: là tiền thuê kho bãi, thuê bốc vác, vận chuyển hàng hoá, trả tiền hoa hồng...
Chi phí bằng tiền khác bao gồm: tiếp khách, quảng cáo, chào hàng, hội nghị khách hàng...
2.1.2. Nội dung của chi phí quản lý doanh nghiệp
Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm: chi phí nhân viên, vật liệu văn phòng, dụng cụ, đồ dùng văn phòng, khấu hao tài sản cố định, thuế, phí, lệ phí khác, chi phí dự phòng, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền khác, chi phí quản lý doanh nghiệp khác.
Trong đó:
Chi phí nhân viên: bao gồm tiền lương, tiền công, các khoản trích Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Kinh phí công đoàn theo tỷ lệ quy định trên tổng tiền lương nhân viên quản lý phải trả trong kỳ.
Chi phí vật liệu văn phòng: chi phí vật liệu phục vụ cho quản lý như chi phí mua văn phòng phẩm, bàn ghế hay các tài sản khác mà không đủ điều kiện để ghi nhận thành tài sản cố định.
Chi phí khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ chi phí về khấu hao tài sản cố định cho bộ phận quản lý.
Thuế, phí, lệ phí khác: bao gồm thuế nhà đất, thuế môn bài, và các loại phí, lệ phí khác như lệ phí cầu đường...
Chi phí dự phòng: là khoản dự phòng trích lập cho hàng tồn kho và nợ phải thu khó đòi.
Chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại, bưu phí, bảo hiểm tài sản.
Chi phí bằng tiền khác như: lãi tiền vay, chi phí hội nghị, tiếp khách, chi phí đào tạo, chi phí nghiên cứu khoa học, công tác phí...
Chi phí quản lý doanh nghiệp khác như: chi phí sửa chữa tài sản, an toàn lao động, bảo vệ phòng cháy chống bão lụt, chi phí ăn ca và các chi phí khác.
Thông thường trong các đơn vị để theo dõi chi tiết theo từng khoản mục chi phí hoạt động, kế toán mở các tiểu khoản chi phí chi tiết cho từng nội dung chi. Mức độ chi tiết của các tài khoản chi phí hoạt động sẽ phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như nhu cầu của quản lý trong từng doanh nghiệp.
2.2. Các nguyên tắc hạch toán kế toán đối với chi phí hoạt động.
Việc hạch toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp trừ vào thu nhập để tính lợi nhuận trong kỳ phải được căn cứ vào mức độ, quy mô phát sinh chi phí, vào doanh thu bán hàng và vào chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp sao cho đảm bảo nguyên tắc phù hợp giữa chi phí và doanh thu. Trường hợp chi phí hoạt động phát sinh trong kỳ lớn trong khi doanh thu kỳ này nhỏ hoặc chưa có thì chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp sẽ được tạm thời kết chuyển vào tài khoản 142 ( 1422- chi phí chờ kết chuyển ). Số chi phí này sẽ được kết chuyển trừ vào thu nhập (một lần hoặc nhiều lần) ở các kỳ sau khi có doanh thu. Quá trình tập hợp và kết chuyển chi phí bán hàng và chi phí quản lý có thể khái quát qua các sơ đồ sau:
3. Vai trò của chi phí hoạt động trong kiểm toán Báo cáo tài chính
3.1. Mối quan hệ giữa chi phí hoạt động và các khoản mục trên Báo cáo tài chính.
Chi phí hoạt động là một yếu tố quan trọng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí phát sinh có nghĩa là doanh nghiệp đang tồn tại, chỉ khi nào doanh nghiệp ngừng hoạt động thì chi phí mới mất đi. Bởi vậy chi phí hoạt động có một ý nghĩa hết sức to lớn không chỉ với bản thân doanh nghiệp mà còn cả với các bên có liên quan như cổ đông, chủ đầu tư, nhà nước. . .
Thật vậy, chi phí hoạt động ảnh hưởng nghiêm trọng đến Báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí hoạt động bị phản ánh sai lệch sẽ làm thay đổi lợi nhuận trước thuế, thuế lợi tức và lợi nhuận sau thuế, dẫn đến số liệu trên Báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh không trung thực kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Đối với Bảng cân đối tài sản, chi phí hoạt động ảnh hưởng tới các khoản mục như nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, phải trả công nhân viên, thuế và các khoản phải nộp nhà nước, lợi nhuận giữ lại... Tóm lại nếu chi phí hoạt động không được phản ánh trung thực hợp lý thì sẽ ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh cũng như tổng tài sản, tổng nguồn vốn của doanh nghiệp.
3.2. ý nghĩa của kiểm toán chi phí hoạt động trong một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính.
Vai trò quan trọng của chi phí hoạt động trong qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã khiến kiểm toán chi phí hoạt động trở thành một quy trình kiểm toán riêng biệt trong kiểm toán các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính của mỗi đơn vị được kiểm toán.
Thật vậy, trong mọi cuộc kiểm toán khi đánh giá tính trọng yếu của các khoản mục trên Báo cáo tài chính, các kiểm toán viên đều cho rằng khoản mục chi phí nói chung trong đó có chi phí hoạt động là khoản mục trọng yếu và cần phải kiểm tra một cách đầy đủ nhằm tránh bỏ sót những sai phạm trọng yếu có thể có đối với khoản mục này, từ đó giảm được rủi ro kiểm toán xuống mức thấp nhất có thể. Không những thế, khoản mục chi phí hoạt động còn ảnh hưởng tới các khoản mục khác trong Báo cáo tài chính, đặc biệt là lợi nhuận ròng của doanh nghiệp do đó các kiểm toán viên không thể bỏ qua bước công việc kiểm toán chi
phí hoạt động. Mặt khác kiểm tra tính đúng đắn của việc tập hợp chi phí hoạt động còn giúp kiểm toán viên đưa ra được những ý kiến tư vấn giúp doanh nghiệp hoàn thiện hơn trong công tác hạch toán kế toán cũng như trong công việc kinh doanh của khách hàng được kiểm toán. Do đó ta có thể khẳng định tính tất yếu phải có kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán Báo cáo tài chính của bất kì loại hình kiểm toán nào hiện nay.
II. Quy trình kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán Báo cáo tài chính.
1. Mục tiêu kiểm toán chi phí hoạt động.
Cũng như mọi hoạt động có ý thức khác của con người, đặc biệt với tính chất của một hoạt động chuyên sâu cao về nghề nghiệp, kiểm toán cũng có mục đích cùng những tiêu điểm cần hướng tới. Tập hợp những tiêu điểm hướng tới mục đích đó gọi là hệ thống mục tiêu kiểm toán. Hệ thống mục tiêu kiểm toán bao gồm mục tiêu kiểm toán chung và mục tiêu kiểm toán cụ thể cho từng khoản mục hay phần hành kiểm toán để đảm bảo độ tin cậy cũng như tính thống nhất của các yếu tố cấu thành nên Báo cáo tài chính.
1.1. Mục tiêu kiểm toán chung.
Các mục tiêu kiểm toán chung lại được chia thành hai loại cụ thể là sự hợp lý chung và các mục tiêu khác. Mục tiêu hợp lý chung bao hàm việc xem xét, đánh giá tổng thể số tiền ghi trên các khoản mục, trên cam kết chung của nhà quản lý và thông tin thu được qua khảo sát thực tế ở khách thể kiểm toán trong quan hệ với việc lựa chọn các mục tiêu chung khác. Nếu kiểm toán viên không nhận thấy mục tiêu hợp lý chung đã đạt được thì tất yếu phải dùng đến các mục tiêu chung khác.
Các mục tiêu chung khác được đặt ra tương ứng với cam kết của nhà quản lý là tính hiệu lực, tính trọn vẹn, quyền và nghĩa vụ, chính xác cơ học, phân loại và trình bày. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 nêu rõ: “Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải luôn nắm vững mục tiêu kiểm toán là đưa ra ý kiến về sự trung thực và hợp lý của Báo cáo tài chính trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán Báo cáo tài chính”. Việc xác định đúng mục tiêu cho cuộc kiểm toán sẽ giúp kiểm toán viên xác định đúng việc cần làm, tiết kiệm thời gian và tăng cường hiệu quả làm việc.
Đồng thời mục tiêu kiểm toán Báo cáo tài chính cũng giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót từ đó có biện pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tài chính của đơn vị.
1.2. Các mục tiêu kiểm toán đặc thù.
Trên cơ sở xác định các mục tiêu chung, kiểm toán viên và công ty kiểm toán tiến hành xác định các mục tiêu cụ thể cho từng khoản mục, từng phần hành trên Báo cáo tài chính căn cứ vào cách phản ánh, theo dõi chúng trong hạch toán kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng.
Đối với khoản mục chi phí hoạt động các mục tiêu kiểm toán cụ thể được đặt ra thường là:
Tính có thật của các nghiệp vụ chi phí: mục tiêu này đòi hỏi kiểm toán viên phải xem xét các nghiệp vụ về chi phí hoạt động có thực tế phát sinh không ?
Tính trọn vẹn của các nghiệp vụ chi phí phát sinh: mục tiêu này quy định các nghiệp vụ chi phí hoạt động phát sinh phải được ghi chép vào sổ sách đầy đủ và phải được phản ánh hay trình bày trên Báo cáo tài chính.
Tính tuân thủ: mục tiêu này yêu cầu đơn vị phải tuân thủ các quy định, chế độ, chính sách có liên quan khi tập hợp chi phí hoạt động.
Tính đúng kỳ: mục tiêu này đòi hỏi kiểm toán viên phải xem xét các nghiệp vụ về chi phí hoạt động có được ghi nhận đúng kỳ không? Không được ghi nhận vào chi phí các khoản chi phục vụ cho kỳ sản xuất kinh doanh sau.
Tính chính xác cơ học: mục tiêu này quy định các nghiệp vụ chi phí hoạt động phát sinh phải được ghi chép vào sổ sách kế toán một cách chính xác và được kết chuyển đúng đắn.
Tính phân loại và trình bày: mục tiêu này yêu cầu các nghiệp vụ về chi phí hoạt động phải được phân loại và trình bày đúng đắn, phải phù hợp với các quy định hiện hành cũng như các nguyên tắc và các chuẩn mực kế toán được thừa nhận rộng rãi.
Tuy nhiên việc xác định các mục tiêu kiểm toán đặc thù trong khoản mục chi phí hoạt động cũng còn tuỳ thuộc vào những tình huống cụ thể mà tình huống cụ thể rất đa dạng nên kinh nghiệm và khả năng phán đoán của kiểm toán viên là rất quan trọng trong quá trình này.
2. Những rủi ro thường gặp trong kiểm toán chi phí hoạt động.
Chi phí hoạt động là một bộ phận của chi phí sản xuất kinh doanh nên trong kiểm toán chi phí hoạt động kiểm toán viên cũng thường gặp những rủi ro chung như đối với kiểm toán chi phí bao gồm các trường hợp:
Chi phí phản ánh trên báo cáo, sổ sách kế toán cao hơn chi phí thực tế, thể hiện cụ thể như sau:
Doanh nghiệp đã hạch toán vào chi phí hoạt động cả những khoản chi không có chứng từ hoặc có chứng từ gốc nhưng chứng từ gốc không hợp lệ.
Doanh nghiệp đã hạch toán vào chi phí hoạt động cả những khoản chi mà theo quy định không được hạch toán vào chi phí như các khoản tiền phạt do vi phạm pháp luật, các khoản chi phí kinh doanh, chi phí đi công tác nước ngoài vượt định mức, các khoản chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định, các khoản chi ủng hộ các cơ quan, tổ chức, xã hội (chi từ thiện, trợ cấp...) hoặc các chi phí khác do các chi nhánh công ty ở nước ngoài phân bổ.
Kế toán có sự nhầm lẫn trong việc tính toán, ghi sổ, do đó đã làm cho chi phí ghi trong sổ sách, báo cáo kế toán tăng lên so với số phản ánh trên chứng từ kế toán .
Doanh nghiệp đã hạch toán vào chi phí các khoản chi mà thực tế chưa phát sinh trong kỳ kế toán. Ví dụ: để giảm bớt lãi thực tế, doanh nghiệp đã trích trước vào chi phí trong năm một khoản chi mà theo quy định khoản chi này phải trích vào chi phí năm sau như chi phí thuê nhà đất, chi phí đào tạo. . .
Doanh nghiệp đã hạch toán vào chi phí trong năm các khoản thực tế đã chi nhưng do nội dung, tính chất hoặc độ lớn của khoản chi nên theo quy định các khoản chi này phân bổ cho nhiều kỳ sản xuất kinh doanh.
Chi phí phản ánh trên báo cáo, sổ sách thấp hơn chi phí thực tế, thể hiện cụ thể như sau:
Một số khoản thực tế đã chi nhưng vì chứng từ thất lạc mà doanh nghiệp không có những biện pháp cần thiết để có chứng từ hợp lệ nên số khoản chi này không được hạch toán vào chi phí trong kỳ.
Một số khoản thực tế đã chi nhưng do người được giao nhiệm vụ đã hoàn thành công việc trong kỳ song cuối kỳ vẫn chưa làm các thủ tục thanh toán do đó các chi phí này vẫn chưa được hạch toán vào chi phí trong kỳ.
Một số chi phí đã phát sinh liên quan đến kỳ kế toán hiện tại nhưng chưa thực sự thanh toán nên chưa được ghi nhận (Chi phí điện, nước...).
Kế toán chưa phân loại đúng các khoản mục chi phí trên Báo cáo tài chính như hạch toán nhầm giữa chi phí hoạt động với chi phí sản xuất hay chi phí hoạt động tài chính.
Những rủi ro thường gặp nói trên có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là do nhân viên kế toán chưa nắm được đầy đủ các quy định về hạch toán chi phí hoặc do trình độ nghiệp vụ của nhân viên kế toán chưa vững, cũng có thể vì một lý do nào đó mà nhân viên kế toán đã hạch toán không đúng quy định. Do đó trong quá trình tiến hành kiểm toán, kiểm toán viên phải nắm vững những nguyên tắc kế toán cơ bản, những quy định về hạch toán chi phí để đánh giá các rủi ro có thể có đối với khoản mục chi phí hoạt động, từ đó đưa ra các thủ tục kiểm toán thích hợp nhằm ngăn ngừa và phát hiện các sai sót .
3. Quy trình kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán Báo cáo tài chính.
Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế và tính hiệu lực của cuộc kiểm toán cũng như để thu thập bằng chứng đầy đủ và có giá trị làm căn cứ cho kết luận của kiểm toán viên về tính trung thực và hợp lý của số liệu về khoản mục chi phí hoạt động trên Báo cáo tài chính, quy trình kiểm toán chi phí hoạt động cũng được thực hiện theo trình tự chung của mọi cuộc kiểm toán bao gồm ba bước như sau: lập kế hoạch và thiết kế các phương pháp kiểm toán, thực hiện kế hoạch kiểm toán và kết thúc kiểm toán.
3.1. Lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế chương trình kiểm toán đối với khoản mục chi phí hoạt động
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của một cuộc kiểm toán, có vai trò quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. “Lập kế hoạch” có nghĩa là triển khai một chiến lược tổng thể và một phương pháp tiếp cận phù hợp, chi tiết về tính chất, lịch trình và phạm vi của công tác kiểm toán.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300 – Lập kế hoạch kiểm toán quy định: “ Kế hoạch kiểm toán phải được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán, đảm bảo phát hiện những vấn đề tiềm ẩn và cuộc kiểm toán được hoàn thành đúng thời hạn”. Theo đó, trong giai đoạn này, kiểm toán viên thực hiện một số bước công việc chủ yếu sau:
3.1.1. Tìm hiểu hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 310 – Hiểu biết về tình hình kinh doanh nêu rõ: “Khi tiến