Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt khi đất nước đang bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, tham gia tích cực vào các tổ chức kinh tế, tài chính thế giới; đặc biệt sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức WTO, nhiều cơ hội mới đã mở ra cho sự phát triển kinh tế nước nhà. Song hành cùng những cơ hội đó là những thách thức vô cùng lớn, đặc biệt là sự cạnh tranh gay gắt từ các tập đoàn, doanh nghiệp lớn của nước ngoài, có năng lực vốn mạnh mẽ, lợi thế về khoa học công nghệ kỹ thuật và trình độ quản lý. Vậy với trình độ sản xuất còn hạn chế, tài chính còn nhỏ, trình độ quản lý còn yếu, nhiều doanh nghiệp trong nước vẫn hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh của các thương hiệu sản phấm Việt Nam trên thị trường thế giới còn yếu thì làm thế nào các doanh nghiệp Việt Nam có thể thâm nhập, phát triến và vươn xa ra thị trường quốc tế.
Để đạt được mục đích phát triển lâu dài và bền vững, ngay từ bây giờ các doanh nghiệp trong nước cần phải cải thiện bài toán năng suất và chất lượng. Có thể nói, hiện nay chất lượng sản phẩm đang trở thành yếu tố cạnh tranh đóng vai trò ngày càng quan trọng. Một sản phẩm có chất lượng và có tính cạnh tranh đòi hỏi nó phải thỏa mãn được những nhu cầu tiêu dùng ngày càng phức tạp của khách hàng với chi phí thấp nhất có thế. Mà nhu cầu của người tiêu dùng thì luôn luôn thay đổi và đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng sản phẩm. Dựa vào những nhu cầu ấy, ta sản xuất những sản phẩm có những thuộc tính mà khách hàng mong muốn, đồng thời dự báo được xu hướng thay đổi nhu cầu của khách hàng trong tương lai để có thể có chiến lược nghiên cứu, sản xuất mới. Và trong quá trình sản xuất ấy, nhất thiết phải đảm bảo rằng từng khâu, từng giai đoạn sản xuất phải đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật về chất lượng. Muốn làm được điều này, khi xây dựng chính sách phát triến tổng thế, doanh nghiệp cần đưa ra chính sách chất lượng mà doanh nghiệp hướng đến là gì?; lập kế hoạch về các mục tiêu, yêu cầu chất lượng; đồng thời phải có hệ thống theo dõi, đánh giá các công việc liên quan đến toàn bộ quá trình sản xuất nhằm kiểm soát chất lượng một cách hiệu quả nhất.
Công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú là một đơn vị trực thuộc tập đoàn Dệt May Việt Nam, hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Hiện nay, công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú là một trong số các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Việt Trì kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất sợi, vải các loại, may quần áo, dệt khăn. Nhận thấy vai trò quan trọng của công tác quản trị chất lượng sản phẩm, hơn nữa để theo kịp với nhịp độ phát triển của thời đại, ngay từ khi bắt đầu quá trình sản xuất kinh doanh công ty đã tiến hành lập kế hoạch và giám sát chặt chẽ chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên việc thực hiện công tác quản trị chất lượng sản phẩm của công ty vẫn còn tồn tại những hạn chế như: chất lượng nguồn nhân lực thực hiện công tác quản trị chất lượng sản phẩm chưa cao, chưa đề ra hệ thống các tiêu chí cụ thể trong quá trình kiểm tra đánh giá chất lượng sản phẩm, nguồn vốn công ty còn hạn chế, Với mong muốn được đóng góp ý kiến, đưa ra giải pháp để nâng cao công tác quản trị chất lượng sản phẩm của công ty, em quyết định lựa chọn đề tài “Thực trạng công tác quản lý chất lượng sản phẩm sợi tại công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú” làm bài báo cáo kết quả học phần Quản trị Marketing.
80 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4560 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực trạng công tác quản lý chất lượng sản phẩm sợi tại công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số hiệu
Tên
Trang số
1.1
Vòng tròn Deming
12
1.2
Mô hình 5 khoảng cách chất lượng
13
2.1
Sơ đồ cơ cấu tổ chức
30
2.2
Sơ đồ quy trình sản xuất sợi xe
54
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu
Tên
Trang số
1.1
Bảng tổng hợp các phiên bản ISO 9000
2.1
Đặc điểm lao động của công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú, giai đoạn 2011- 2013ng mục tài sản của công ty
33
2.2
Giá trị
36
2.3
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú giai đoạn 2011-2013
38
2.4
Một số sản phẩm chủ yếu của công ty
40
2.5
Danh mục các quy trình của công ty
43
2.6
Các yếu tổ ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm
46
2.7
Sản lượng sản xuất của mỗi loại sản phẩm sợi trong 3 năm 2011-2013
47
2.8
Sản lượng sợi theo phân cấp năm 2013
48
2.9
Chất lượng sản phẩm sợi của công ty trong giai đoạn 2011-2013
49
2.10
Dự kiến kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm 2011-2013
50
2.11
Dự kiến tỷ lệ sản phẩm sai hỏng của công ty trong 3 năm
51
2.12
Kết quả đào tạo nguồn nhân lực của công ty trong 3 năm 2011-2013
55
2.13
Chu kỳ kiểm tra và thí nghiệm sợi
58
2.14
Nội dung kiểm tra trong quá trình kéo sợi
59
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Diễn giải
1
HACCP
Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm
2
QLCL
Quản lý chất lượng
3
HTQLCL
Hệ thống quản lý chất lượng
4
TQM
Phương pháp quản lý chất lượng toàn diện
5
T.P
Thành phố
6
Tr.đ
Triệu đồng
7
SXDD
Sản xuất dở dang
A.MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt khi đất nước đang bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, tham gia tích cực vào các tổ chức kinh tế, tài chính thế giới; đặc biệt sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức WTO, nhiều cơ hội mới đã mở ra cho sự phát triển kinh tế nước nhà. Song hành cùng những cơ hội đó là những thách thức vô cùng lớn, đặc biệt là sự cạnh tranh gay gắt từ các tập đoàn, doanh nghiệp lớn của nước ngoài, có năng lực vốn mạnh mẽ, lợi thế về khoa học công nghệ kỹ thuật và trình độ quản lý. Vậy với trình độ sản xuất còn hạn chế, tài chính còn nhỏ, trình độ quản lý còn yếu, nhiều doanh nghiệp trong nước vẫn hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh của các thương hiệu sản phấm Việt Nam trên thị trường thế giới còn yếu thì làm thế nào các doanh nghiệp Việt Nam có thể thâm nhập, phát triến và vươn xa ra thị trường quốc tế.
Để đạt được mục đích phát triển lâu dài và bền vững, ngay từ bây giờ các doanh nghiệp trong nước cần phải cải thiện bài toán năng suất và chất lượng. Có thể nói, hiện nay chất lượng sản phẩm đang trở thành yếu tố cạnh tranh đóng vai trò ngày càng quan trọng. Một sản phẩm có chất lượng và có tính cạnh tranh đòi hỏi nó phải thỏa mãn được những nhu cầu tiêu dùng ngày càng phức tạp của khách hàng với chi phí thấp nhất có thế. Mà nhu cầu của người tiêu dùng thì luôn luôn thay đổi và đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng sản phẩm. Dựa vào những nhu cầu ấy, ta sản xuất những sản phẩm có những thuộc tính mà khách hàng mong muốn, đồng thời dự báo được xu hướng thay đổi nhu cầu của khách hàng trong tương lai để có thể có chiến lược nghiên cứu, sản xuất mới. Và trong quá trình sản xuất ấy, nhất thiết phải đảm bảo rằng từng khâu, từng giai đoạn sản xuất phải đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật về chất lượng. Muốn làm được điều này, khi xây dựng chính sách phát triến tổng thế, doanh nghiệp cần đưa ra chính sách chất lượng mà doanh nghiệp hướng đến là gì?; lập kế hoạch về các mục tiêu, yêu cầu chất lượng; đồng thời phải có hệ thống theo dõi, đánh giá các công việc liên quan đến toàn bộ quá trình sản xuất nhằm kiểm soát chất lượng một cách hiệu quả nhất.
Công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú là một đơn vị trực thuộc tập đoàn Dệt May Việt Nam, hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Hiện nay, công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú là một trong số các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Việt Trì kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất sợi, vải các loại, may quần áo, dệt khăn. Nhận thấy vai trò quan trọng của công tác quản trị chất lượng sản phẩm, hơn nữa để theo kịp với nhịp độ phát triển của thời đại, ngay từ khi bắt đầu quá trình sản xuất kinh doanh công ty đã tiến hành lập kế hoạch và giám sát chặt chẽ chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên việc thực hiện công tác quản trị chất lượng sản phẩm của công ty vẫn còn tồn tại những hạn chế như: chất lượng nguồn nhân lực thực hiện công tác quản trị chất lượng sản phẩm chưa cao, chưa đề ra hệ thống các tiêu chí cụ thể trong quá trình kiểm tra đánh giá chất lượng sản phẩm, nguồn vốn công ty còn hạn chế,…Với mong muốn được đóng góp ý kiến, đưa ra giải pháp để nâng cao công tác quản trị chất lượng sản phẩm của công ty, em quyết định lựa chọn đề tài “Thực trạng công tác quản lý chất lượng sản phẩm sợi tại công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú” làm bài báo cáo kết quả học phần Quản trị Marketing.
Mục tiêu nghiên cứu đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý chất lượng sản phẩm sợi tại công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chất lượng sản phẩm tại công ty.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý chất lượng sản phẩm.
Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý chất lượng sản phẩm sợi tại công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú.
Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chất lượng sản phẩm sợi, góp phần thúc đẩy sự thành công và phát triển bền vững của công ty.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác quản lý chất lượng sản phẩm sợi tại công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
-Phạm vi về nội dung: Công tác quản lý chất lượng sản phẩm sợi
- Phạm vi không gian: Công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú
- Địa chỉ: Số 9 - Đường Công Nhân- P.Nông Trang- TP Việt Trì- Tỉnh Phú Thọ
Phạm vi thời gian: Số liệu thu thập từ năm 2011-2013
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Để tiến hành những nội dung nghiên cứu, quan điểm thống nhất và xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu là quan điểm duy vật biện chứng và quan điểm duy vật lịch sử.
- Phương pháp duy vật biện chứng được sử dụng khi coi công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú hay công tác quản lý chất lượng sản phẩm sợi của công ty trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật, hiện tượng khác.
- Phương pháp duy vật lịch sử là xem xét, đánh giá các sự vật, hiện tượng kinh tế - xã hội theo quan điểm lịch sử. Trong đề tài, phương pháp nghiên cứu này được sử dụng nhằm mục đích nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú , tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình lao động, tình hình tài sản và các quy luật vận động của nó trong quá trình sản xuất kinh doanh của công ty.
4.2. Phương pháp thu thập thông tin, số liệu
4.2.1 Thông tin thứ cấp
- Đây là các tài liệu, số liệu từ các công trình nghiên cứu trước được lựa chọn sử dụng vào mục đích phân tích, minh họa rõ nét về nội dung nghiên cứu, nguồn gốc của các nguồn tài liệu này đã được chú thích rõ trong phần “Tài liệu tham khảo”. Nguồn tài liệu này bao gồm:
- Tài liệu từ sách báo như: Các sách lý luận từ sách giáo khoa đến sách chuyên khảo, các công trình khoa học đã được xuất bản (các đề tài nghiên cứu thuộc các cấp, các luận văn, luận án), thông tin trên mạng internet,…
- Tài liệu, số liệu đã được công bố về kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình sử dụng chi phí kinh doanh,… các số liệu này thu thập từ báo cáo tổng kết hàng năm của công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú.
Các thông tin thu thập được, cho biết tình hình nghiên cứu trong lĩnh vực quản trị chất lượng sản phẩm, cung cấp lý luận cơ bản, cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh nói chung của công ty và thực trạng công tác quản lý chất lượng nói riêng tại công ty trong thời gian qua.
4.2.2. Thông tin sơ cấp
Số liệu sơ cấp được thu thập từ việc điều tra các cá nhân, bộ phận trong công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú, các tổ chức kinh tế trong ngành kinh doanh và đối thủ cạnh tranh của công ty.
Phương pháp quan sát: Quan sát là phương pháp ghi lại có kiểm soát các sự kiện hoặc các hành vi ứng xử của con người. Gồm:
- Quan sát trực tiếp và gián tiếp bằng phiếu hỏi đã được thiết kế sẵn
- Quan sát ngụy trang và công khai
Phương pháp phỏng vấn, điều tra: Đề tài đã tiến hành điều tra bằng phiếu hỏi được thiết kế sẵn đối với người lao động trong công ty để nhận thấy thái độ, ý kiến của người lao động về các chính sách quản lý, về chất lượng sản phẩm. Điều này giúp nhà quản lý dễ dàng đưa ra các chính sách phù hợp để hoàn thiện công tác quản lý chất lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty.
Các số liệu này được sử dụng để phân tích về thực trạng công tác quản lý chất lượng tại công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú.
4.3.Phương pháp xử lý thông tin
Lựa chọn, loại bỏ những thông tin kém giá trị, phương pháp cơ bản là so sánh các nguồn tài liệu với nhau.
Tính toán lại số liệu trên cơ sở tôn trọng số liệu gốc, dùng phần mềm Excel tổng hợp, tính toán các chỉ tiêu như số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân.
4.4. Phương pháp phân tích
Phương pháp so sánh: Là phương pháp xem xét một chỉ tiêu dựa trên việc so sánh một chỉ tiêu cơ sở, qua đó xác định xu thế biến động của tiêu chuẩn cấn phân tích như: so sánh biến động về cơ cấu lao động, về doanh thu, chi phi giữa các năm,…
Phương pháp mô tả: Là phương pháp dùng để diễn đạt và giải thích thông tin đã thu thân được thông qua kết quả xử lý thông tin như mô tả về số lao động, doanh thu đạt được, chi phi bỏ ra hàng năm của công ty,..
5. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luân, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung bài báo cáo gồm có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở khoa học và thực tiễn về công tác quản lý chất lượng sản phẩm.
Chương 2. Thực trạng công tác quản lý chất lượng sản phẩm sợi tại công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chất lượng sản phẩm sợi tại công ty cổ phần Dệt Vĩnh Phú.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản về quản trị chất lượng sản phẩm
1.1.1. Quản trị
Thuật ngữ quản trị được giải thích bằng nhiều cách khác nhau và có thể nói là chưa có một định nghĩa nào được tất cả mọi người chấp nhận hoàn toàn.
Mary Parker Follett cho rằng “quản trị là nghệ thuật đạt được mục đích thông qua người khác”. Định nghĩa này nói lên rằng những nhà quản trị đạt được các mục tiêu của tổ chức bằng cách sắp xếp, giao việc cho những người khác thực hiện chứ không phải hoàn thành công việc bằng chính mình.
Định nghĩa giải thích tương đối rõ nét về quản trị được James Stoner và Stephen Robbins trình bày như sau: “Quản trị là tiến trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra”.
Một định nghĩa khác được nhiều người chấp nhận nhất là “Quản trị là sự tác động có hướng đích của chủ thể quản trị lên đối tượng quản trị nhằm đạt được những kết quả cao nhất với mục tiêu đã định trước”. Khái niệm này chỉ ra rằng một hệ thống quản trị bao gồm hai phân hệ: (1) Chủ thể quản trị hay phân hệ quản trị và (2) Đối tượng quản trị hay phân hệ bị quản trị. Giữa hai phân hệ này bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau bằng các dòng thông tin.
1.1.2. Khái niệm về sản phẩm
Theo TCVN ISO 8402: sản phẩm là kết quả của các hoạt động hoặc quá trình (tập hợp các nguồn lực và hoạt động có liên quan với nhau đế biến đầu vào thành đầu ra).
Nguồn lực ở đây được hiểu là nguồn lực: nhân lực, vật lực, tài lực và thông tin.
1.1.3. Chất lượng sản phẩm
1.1.3.1. Một số quan điểm về chất lượng sản phẩm
* Quan điểm siêu việt: Chất lượng là sự tuyệt vời và hoàn hảo nhất của sản phẩm.
*Quan điểm xuất phát từ sản phẩm: Chất lượng được phản ánh bởi các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm.
*Quan niệm của nhà sản xuất: Chất lượng là sự hoàn hảo và phù hợp của 1 sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hay tiêu chuẩn, quy cách đã xác định trước.
* Quan điểm của người tiêu dùng: Chất lượng là sự phù hợp của sản phẩm với mục đích sử dụng của người tiêu dung.
Định nghĩa về chất lượng sản phẩm của ISO: Chất lượng là mức độ thỏa mãn của một tập hợp các thuộc tính đáp ứng yêu cầu.
1.1.3.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
Các yếu tố ảnh hưởng có thể chia thành hai nhóm : các yếu tố bên ngoài và các yếu tố bên trong.
a. Nhóm các yếu tố bên ngoài
Nhu cầu của nền kinh tế:
Chất lượng sản phẩm luôn bị chi phối, ràng buộc bởi hoàn cảnh, điều kiện và nhu cầu nhất định của nền kinh tế. Tác động này thể hiện như sau
Đòi hỏi của thị trường :
Thay đổi theo từng loại thị trường, các đối tượng sử dụng, sự biến đổi của thị trường. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải nhạy cảm với thị trường để tạo nguồn sinh lực cho quá trình hình thành và phát triển các loại sản phẩm. Điều cần chú ý là phải theo dõi, nắm chắc, đánh giá đúng đòi hỏi của thị trường, nghiên cứu, lượng hóa nhu cầu của thị trường để có các chiến lược và sách lược đúng đắn.
Trình độ kinh tế, trình độ sản xuất :
Đó là khả năng kinh tế (tài nguyên, tích lũy, đầu tư..) và trình độ kỹ thuật (chủ yếu là trang thiết bị công nghệ và các kỹ năng cần thiết) có cho phép hình thành và phát triển một sản phẩm nào đó có mức chất lượng tối ưu hay không. Việc nâng cao chất lượng không thể vượt ra ngoài khả năng cho phép của nền kinh tế.
Chính sách kinh tế:
Hướng đầu tư, hướng phát triển các loại sản phẩm và mức thỏa mãn các loại nhu cầu của chính sách kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Sự phát triển của khoa học-kỹ thuật :
Trong thời đại ngày nay, khi khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì trình độ chất lượng của bất kỳ sản phẩm nào cũng gắn liền và bị chi phối bởi sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhất là sự ứng dụng các thành tựu của nó vào sản xuất. Kết quả chính của việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất là tạo ra sự nhảy vọt về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Các hướng chủ yếu của việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện nay là :
Sáng tạo vật liệu mới hay vật liệu thay thế.
Cải tiến hay đổi mới công nghệ.
Cải tiến sản phẩm cũ và chế thử sản phẩm mới.
Hiệu lực của cơ chế quản lý kinh tế :
Chất lượng sản phẩm chịu tác động, chi phối bởi các cơ chế quản lý kinh tế, kỹ thuật, xã hội như:
Kế hoạch hóa phát triển kinh tế
Giá cả
Chính sách đầu tư
Tổ chức quản lý về chất lượng
b.Nhóm yếu tố bên trong
Trong nội bộ doanh nghiệp, các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm có thể được biểu thị bằng qui tắc 4M, đó là :
Men : con người, lực lượng lao động trong doanh nghiêp.
Methods : phương pháp quản trị, công nghệ, trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của doanh nghiệp.
Machines : khả năng về công nghệ, máy móc thiết bị của doanh nghiệp Materials : vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư, nguyên nhiên vật liệu của doanh nghiệp.
Trong 4 yếu tố trên, con người được xem là yếu tố quan trọng nhất.
1.1.3.4 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phấm.
Trong thực tiễn ta gặp rất ít sản phẩm chỉ có một chỉ tiêu chất lượng, mà thường có rất nhiều chỉ tiêu khác nhau. Ta có thể tập hợp một số chỉ tiêu sau để đánh giá chất lượng sản phẩm
Nhóm chỉ tiêu sử dụng: Đây là nhóm chỉ tiêu chất lượng sản phẩm mà người tiêu dùng khi mua hàng hay sử dụng để kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm hàng hoá.
Nhóm chỉ tiêu kỹ thuật- công nghệ.
Bằng cách nào ta có thể kiểm tra, đánh giá về giá trị sử dụng của sản phẩm. Ta sẽ không có kết luận gì về chất lượng sản phẩm hàng hoá nếu như không nghiên cứu một số chỉ tiêu quan trọng sau:
+ Chỉ tiêu về cơ lý hoá như khối lượng, thông số kỹ thuật, các thông số về độ bền, độ tin cậy, độ chính xác, an toàn khi sử dụng và sản xuất... mà hầu như mọi sản phấm đều có. Các chỉ tiêu này thường được quy định trong văn bản tiêu chuẩn của cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp, hợp đồng kinh tế...
+ Chỉ tiêu về sinh hoá như mức độ ô nhiễm đến môi trường, khả năng toả nhiệt, giá trị dinh dường, độ ẩm, độ mài mòn,...Tuỳ vào từng mặt hàng cụ thế và thành phần mỗi chỉ tiêu chiếm mà ta tiến hành kiểm tra các chỉ tiêu này ở một mức độ nhất định, đặc biệt chú ý đến các chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
Nhóm chỉ tiêu hình dáng trang trí thẩm mỹ.
Các chỉ tiêu này bao gồm: chỉ tiêu về hình dạng sản phẩm, sự phối hợp các yếu tố tạo hình, tính chất đường nét, hoa văn, màu sắc thời trang...
Đây là nhóm các chỉ tiêu mà chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của nhiều người, khó được lượng hoá và vì vậy đòi hỏi cán bộ kiểm nghiệm hay người tiêu dùng phải có kinh nghiệm, am hiếu thấm mỹ. Phần lớn các sản phẩm mang đặc trưng này là các sản phẩm về nghệ thuật, tranh ảnh, quần áo thời trang, đồ trang sức...
Nhóm các chỉ tiêu kinh tế.
Mục tiêu lớn nhất của quản trị chất lượng là: Bảo đảm chất lượng của đồ án thiết kế sản phẩm và tuân thủ nghiêm đồ án ấy trong sản xuất, tiêu dùng sao cho tạo ra những sản phẩm thoả mãn nhu cầu của xã hội, thoả mãn thị trường với chi phí xã hội tối thiểu.
Để đạt được mục tiêu trên nhiều tác giả đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về quản trị chất lượng.
Trong các tiêu chuẩn công nghiệp Nhật (JIS) có định nghĩa về quản trị chất lượng như sau: “Hệ thống các phương pháp sản xuất tạo điều kiện sản xuất tiết kiệm những hàng hoá có chất lượng cao hoặc đưa ra những dịch vụ có chất lượng thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng
Giáo sư tiến sĩ Kaoru Ishikawa, một chuyên gia của Nhật về quản trị chất lượng, cho rằng: “Quản trị chất lượng có nghĩa là nghiên cứu triển khai, thiết kế sản xuất và bảo dưỡng một sản phẩm có chất lượng, kinh tế nhất, có ích nhất cho người tiêu dùng và bao giờ cũng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng ”
Định nghĩa của Philip B.Crosby: “ Quản trị chất lượng là một phương tiện có tính chất hệ thống đảm bảo việc tôn trọng tổng thể tất cả các thành phần của một kế hoạch hành động”
Theo ISO_ 9000: “Quản trị chất lượng là các phương pháp hoạt động được sử dụng nhằm đáp ứng các yêu cầu về chất lượng ”
Mặc dù còn tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau song ta có thể khái quát hoá bằng một hệ thống các hoạt động, các biện pháp và quy định hành chính, xã hội, kinh tế - kỹ thuật dựa trên các thành tựu của khoa học hiện đại, nhằm sử dụng tối ưu những tiềm năng để đảm bảo, duy trì và không ngừng nâng cao chất lượng nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu của xã hội với chi phí nhỏ nhất”
1.2.2. Vai trò của quản trị chất lượng sản phẩm
Quản lý chất lượng có vai trò rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay bởi vì quản lý chất lượng một mặt làm cho chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng và mặt khác nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý. Đó là cơ sở để chiếm lĩnh, mở rộng thị trường, tăng cường vị thế, uy tín trên thị trường. Quản lý chất lượng cho phép doanh nghiệp xác định đúng hướng sản phẩm cần cải tiến, thích họp với những mong đợi của khách hàng cả về tính hữu ích và giá cả.
Sản xuất là khâu quan trọng tạo thêm giá trị gia tăng của sản phẩm hoặc dịch vụ. về mặt chất, đó là các đặc tính hữu ích của sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người ngày càng cao hơn. về mặt lương, là sự gia tăng của giá trị tiền tệ thu được so với những chi phí ban đầu bỏ ra. Giảm chi phí trên cơ sở quản lý sử dụng tốt hơn các yếu tố sản xuất mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hon. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, có thể tập trung vào cải tiến công nghệ hoặc sử dụng công nghệ mới hiện đại hon. Hướng này rất quan trọng nhưng gắn với chi phí ban đầu lớn và quản lý không tốt sẽ gây ra lãng phí lớn. Mặt khác, có thể nâng cao chất lượng trên cơ sở giảm chi phí thông qua hoàn thiện và tăng cường công tác quản lý chất lượng. Chất lượng sản phẩm được tạo ra từ quá trình sản xuất. Các yếu tố lao động, công nghệ và con người kết họp chặt chẽ với nhau theo những hình thức khác nhau. Tăng cường quản lý chất lượng sẽ giúp cho xác định đầu tư đúng hướng, khai thác quản lý sử dụng công nghệ, con gnười có hiệu quả hon. Đây là lý do vì sao quản lý chất lượng được đề cao trong nhữ