Theo xu hướng hội nhập trong cơ chế thị trường, kiểm toán ra đời và phát triển mạnh mẽ là một tất yếu khách quan. Kiểm toán ngày nay càng khẳng định vị trí, vai trò to lớn của nó trong quản lý kinh tế tài chính cả ở phạm vi vĩ mô và vi mô.
Kiểm toán với tư cách là công cụ thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh tế nhằm cung cấp những thông tin trung thực, tin cậy. Với chức năng của mình, kiểm toán ngày càng góp phần làm trong sạch và lành mạnh nền kinh tế. Kiểm toán được ví như “Quan toà công minh của quá khứ, người dẫn dắt cho hiện tại và người cố vấn sáng suốt cho tương lai”.
Nước ta, kiểm toán còn mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn. Hơn 10 năm qua hoạt động kiểm toán đã đạt được nhiều thành tích và khẳng định được vai trò to lớn của nó trong công tác quản lý kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động kiểm toán còn rất nhiều hạn chế, đặc biệt là kiểm toán trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, một lĩnh vực sử dụng khá lớn kinh phí của Nhà nước.
Quá trình đầu tư XDCB vô cùng phức tạp, liên quan và đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả của các cơ quan chức năng, ban ngành và nhiều lĩnh vực. Sản phẩm đầu tư XDCB và quá trình đầu tư làm thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường đổi mới công nghệ, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội, tăng năng lực sản xuất. Tạo điều kiện áp dụng thành tựu khoa học công nghệ và nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực, tạo công ăn việc làm, đáp ứng yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tạo điều kiện và tăng cường hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới.
Nước ta, trong những năm qua, số vốn đầu tư cho XDCB ngày càng tăng và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi hàng năm của ngân sách Nhà nước. Để đạt được hiệu quả của đồng vốn bỏ ra cho XDCB nhằm tạo ra một sự tăng trưởng về số lượng hay nâng cao chất lượng một sản phẩm cần phải có một quá trình quản lý chặt chẽ với sự tham gia đồng thời của nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều cơ quan, đơn vị. Trong những năm vừa qua Đảng và Chính phủ đã và đang quan tâm rất nhiều đến lĩnh vực này và luôn luôn đổi mới quản lý đầu tư XDCB. Đã hình thành cơ chế quản lý một cách có hệ thống, quán xuyến suốt quá trình đầu tư và xây dựng, đã có tác dụng tích cực tăng cường quản lý, chống thất thoát và lãng phí, thực hành tiết kiệm, nâng cao hiệu quả đầu tư.
Vì xây dựng cơ bản là một lĩnh vực đặc thù, rất phức tạp nên báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình xây dựng cơ bản hoàn thành với tư cách là một bản khai tài chính sẽ khác với báo cáo tài chính. Từ đó, việc kiểm tra, kiểm toán báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản hoàn thành cũng có những nét riêng về nội dung, trình tự và phương pháp.
Nội dung chính của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có các phần chính sau:
Phần I: Cơ sở lý luận về kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư.
Phần II: Thực trạng quy trình kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư tại Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC).
Phần III: Bài học kinh nghiệm và phương hướng hoàn thiện quy trình kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư.
167 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 2674 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tìm hiểu Quy trình kiểm toán quyết toán vốn đầu tư công trình xây dựng cơ bản hoàn thành do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm t, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Theo xu hướng hội nhập trong cơ chế thị trường, kiểm toán ra đời và phát triển mạnh mẽ là một tất yếu khách quan. Kiểm toán ngày nay càng khẳng định vị trí, vai trò to lớn của nó trong quản lý kinh tế tài chính cả ở phạm vi vĩ mô và vi mô.
Kiểm toán với tư cách là công cụ thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh tế nhằm cung cấp những thông tin trung thực, tin cậy. Với chức năng của mình, kiểm toán ngày càng góp phần làm trong sạch và lành mạnh nền kinh tế. Kiểm toán được ví như “Quan toà công minh của quá khứ, người dẫn dắt cho hiện tại và người cố vấn sáng suốt cho tương lai”.
Nước ta, kiểm toán còn mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn. Hơn 10 năm qua hoạt động kiểm toán đã đạt được nhiều thành tích và khẳng định được vai trò to lớn của nó trong công tác quản lý kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động kiểm toán còn rất nhiều hạn chế, đặc biệt là kiểm toán trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, một lĩnh vực sử dụng khá lớn kinh phí của Nhà nước.
Quá trình đầu tư XDCB vô cùng phức tạp, liên quan và đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả của các cơ quan chức năng, ban ngành và nhiều lĩnh vực. Sản phẩm đầu tư XDCB và quá trình đầu tư làm thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường đổi mới công nghệ, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội, tăng năng lực sản xuất. Tạo điều kiện áp dụng thành tựu khoa học công nghệ và nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực, tạo công ăn việc làm, đáp ứng yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tạo điều kiện và tăng cường hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới.
Nước ta, trong những năm qua, số vốn đầu tư cho XDCB ngày càng tăng và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi hàng năm của ngân sách Nhà nước. Để đạt được hiệu quả của đồng vốn bỏ ra cho XDCB nhằm tạo ra một sự tăng trưởng về số lượng hay nâng cao chất lượng một sản phẩm cần phải có một quá trình quản lý chặt chẽ với sự tham gia đồng thời của nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều cơ quan, đơn vị. Trong những năm vừa qua Đảng và Chính phủ đã và đang quan tâm rất nhiều đến lĩnh vực này và luôn luôn đổi mới quản lý đầu tư XDCB. Đã hình thành cơ chế quản lý một cách có hệ thống, quán xuyến suốt quá trình đầu tư và xây dựng, đã có tác dụng tích cực tăng cường quản lý, chống thất thoát và lãng phí, thực hành tiết kiệm, nâng cao hiệu quả đầu tư.
Vì xây dựng cơ bản là một lĩnh vực đặc thù, rất phức tạp nên báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình xây dựng cơ bản hoàn thành với tư cách là một bản khai tài chính sẽ khác với báo cáo tài chính. Từ đó, việc kiểm tra, kiểm toán báo cáo quyết toán công trình xây dựng cơ bản hoàn thành cũng có những nét riêng về nội dung, trình tự và phương pháp.
Nhận thức được điều này nên trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán em đã chọn đề tài:
“Tìm hiểu Quy trình kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình xây dựng cơ bản hoàn thành do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán AASC thực hiện”
Nội dung chính của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có các phần chính sau:
Phần I: Cơ sở lý luận về kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư.
Phần II: Thực trạng quy trình kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư tại Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC).
Phần III: Bài học kinh nghiệm và phương hướng hoàn thiện quy trình kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư.
Do những hạn chế về thời gian và kinh nghiệm chuyên môn nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Phần I
Cơ sở lý luận về kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư
I.Đặc điểm của XDCB và quản lý đầu tư XDCB
1.Đặc điểm của XDCB và quản lý đầu tư XDCB
Đầu tư là việc bỏ vốn để thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. Đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) là việc bỏ vốn trong lĩnh vực XDCB nhằm tạo ra sản phẩm là những công trình, hạng mục công trình. XDCB là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội, nó quyết định đến sự phát triển của đất nước và quy mô sản xuất của các ngành có liên quan.
Đặc điểm của XDCB được thể hiện thông qua đặc điểm của ngành, của sản phẩm XDCB và đặc điểm của quá trình đầu tư XDCB. Chính những đặc điểm này quyết định đến đặc điểm quá trình quản lý đầu tư XDCB. XDCB là một ngành sản xuất vật chất chịu tác động của điều kiện tự nhiên. Sản phẩm của ngành XDCB là những công trình, hạng mục công trình được tạo nên có liên quan đến nhiều ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân. Sản phẩm XDCB quyết định đến quy mô của các ngành sản xuất khác. Đồng thời nó cũng phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội và năng lực sản xuất của một đất nước. Sản phẩm XDCB là những công trình, hạng mục công trình được tạo nên từ vật liệu xây dựng, thiết bị, lao động gắn liền với đất, khoảng không, mặt nước, mặt biển và thềm lục địa. Các công trình, hạng mục công trình cũng là sản phẩm của công nghệ xây lắp nó được tạo ra nhằm để sản xuất những sản phẩm cụ thể đã nêu trong dự án. Như vậy, công trình XDCB là sản phẩm tất yếu của giai đoạn thứ hai (Giai đoạn thực hiện đầu tư dự án) và thông qua đó nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng đã nêu trong dự án đó là sự tăng trưởng về số lượng, hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm, dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định. Các công trình XDCB thường có giá trị lớn, thời gian thi công lâu, địa điểm thi công cố định, có dự toán, thiết kế và phương pháp thi công riêng. Công trình XDCB có nhiều loại, muốn quản lý tốt thì phải biết được các loại công trình này.
Phân loại công trình:
Theo tính chất công trình và qui mô đầu tư, công trình chia ra thành ba loại:
(Công trình là sản phẩm của dự án nhóm A: Đây là nhóm các công trình, dự án có vốn đầu tư rất lớn hoặc có tính chất quan trọng của quốc gia không kể mức vốn đầu tư.
(Công trình là sản phẩm của dự án nhóm B: Đây là nhóm các công trình được tạo ra từ những dự án có vốn đầu tư nhỏ hơn nhóm A được qui định cụ thể thông qua mức vốn đầu tư.
(Công trình là sản phẩm của dự án nhóm C: Đây chính là công trình là sản phẩm của những dự án có vốn đầu tư nhỏ hơn nhóm B và nó được qui định một cách cụ thể thông qua mức vốn đầu tư.
Theo nguồn vốn chia ra, công trình được phân thành:
(Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp.
(Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh.
(Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
(Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp Nhà nước.
Theo đặc điểm kỹ thuật chia ra, công trình được phân thành:
(Công trình xây dựng dân dụng và công trình xây dựng công nghiệp.
(Công trình cầu, đường, sân bay, hầm lò.
(Công trình bến cảng, đê điều, kè, nhà máy thuỷ điện, các dàn khoan dầu khí, nạo vét lòng sông…
(Công trình cấp thoát nước, cải tạo môi trường, trồng cây gây rừng.
(Công trình cơ khí, chế tạo máy, điều khiển tự động.
Theo tính chất kinh tế chia ra, công trình được phân thành:
(Công trình sản xuất kinh doanh.
(Công trình phi sản xuất kinh doanh.
Theo yêu cầu phạm vi quản lý chia ra, công trình được phân thành:
(Công trình do trung ương quản lý.
(Công trình do địa phương quản lý.
Ngành XDCB tạo ra sản phẩm là những công trình, các công trình này chứa đựng rất đa dạng các hoạt động và ý tưởng của con người như công trình trường học phải chứa đựng tư tưởng giáo dục, công trình khách sạn phải chứa đựng những tư tưởng du lịch… Thực tế thật khó khăn khi phân loại một cách ngắn gọn và đầy đủ hình ảnh rộng lớn của các công trình XDCB. Các công trình trên đây khi tiến hành đầu tư người ta cũng nhìn nhận đánh giá khác nhau, song thường có cách nhìn để đánh giá cho hai loại công trình đó là:
(Công trình có tính chất sản xuất kinh doanh: Loại này khi phân tích, đánh giá để đầu tư, thường người ta quan tâm đến lợi ích kinh tế do công trình sinh ra, như doanh thu hàng năm, giá thành sản xuất, kết quả, khả năng thanh toán trả nợ về vốn vay đầu tư. Đồng thời, người ta cũng cân nhắc và phân tích kỹ về tổng số vốn đầu tư và nguồn đầu tư có kết hợp một số yếu tố khác như môi trường sinh thái, quy hoạch, xã hội…
(Đối với công trình phi sản xuất kinh doanh: Loại công trình này khi đầu tư, vốn thường được lấy từ ngân sách Nhà nước hoặc vay từ các tổ chức quốc tế hoặc quốc gia khác. Khi đầu tư, người ta chỉ xem xét về lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội, môi trường sinh thái, khả năng trả vốn từ lĩnh vực khác, nguồn khác. Nói tóm lại, các công trình này chủ yếu đánh giá trên cơ sở lợi ích công cộng và xã hội, đó là lợi ích gián tiếp.
2.Nội dung và đặc điểm của báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình xây dựng cơ bản hoàn thành (BCQTVĐTCTXDCBHT)
BCQTVĐTCTXDCBHT với tư cách là một bảng khai tài chính được quy định cụ thể dựa trên những đặc trưng riêng có của lĩnh vực đầu tư XDCB. Mỗi lĩnh vực có một đặc thù riêng. Vì vậy, các bản khai tài chính được quy định nhằm mục đích cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết phục vụ việc nhận biết và quản lý điều hành ở lĩnh vực đó. XDCB là một lĩnh vực phức tạp, sản phẩm XDCB được tạo nên bởi nhiều bên có liên quan đến việc quản lý và thi công xây dựng công trình, các khoản chi tiêu đều được định mức, dự toán hoá cao. Vì vậy, tính tuân thủ là đặc trưng nổi bật của quá trình quản lý đầu tư và thi công xây dựng công trình. Do đó, BCQTVĐTCTXDCBHT phải thể hiện được tính tuân thủ này. Đồng thời, BCQTVĐTCTXDCBHT phải thể hiện được tính đơn chiếc, sự không lặp lại của chu kỳ sản xuất kinh doanh cũng như quá trình bàn giao sản phẩm XDCB đưa vào sử dụng. Mặt khác, một công trình có thể được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn và chịu sự quản lý theo đúng qui trình cấp phát, thanh toán, cho vay, đồng thời hệ thống báo cáo quyết toán này phải phản ánh đầy đủ thông tin về quá trình đầu tư XDCB nhằm đáp ứng yêu cầu cho chủ sở hữu vốn và người nhận công trình đưa vào khai thác sử dụng. Chính vì vậy, hệ thống BCQTCTXDCBHT hiện nay được quy định cụ thể như sau (theo Thông tư số 70/2000/TT-BTC ngày 17/7/2000):
(Các văn bản pháp lý (mẫu số 01/QTĐT).
(Báo cáo tổng hợp quyết toán vốn đầu tư hoàn thành (mẫu số 02/QTĐT).
(Báo cáo tình hình thực hiện đầu tư qua các năm (mẫu số 04/QTĐT).
(Số lượng và giá trị tài sản cố định mới tăng (mẫu số 05/QTĐT).
(Số lượng và giá trị tài sản lưu động bàn giao (mẫu số 06/QTĐT).
(Tình hình công nợ (mẫu số 07/QTĐT).
(Bảng đối chiếu số liệu thanh toán vốn đầu tư và nhận xét, đánh giá, kiến nghị trong quá trình cấp, cho vay, thanh toán (mẫu số 08/QTĐT).
(Thuyết minh báo cáo quyết toán vốn đầu tư (mẫu số 09/QTĐT).
(Báo cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành (mẫu số 10/QTĐT).
II.Nội dụng kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình XDCB hoàn thành
1.Mục đích kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình XDCB hoàn thành
Kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT là một đặc trưng riêng biệt của kiểm toán báo cáo tài chính. Kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT là sự kết hợp chặt chẽ giữa kiểm toán báo cáo tài chính , kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động trong cùng một cuộc kiểm toán, trong đó đặc biệt là mối quan hệ giữa kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ. Do đó, mục đích kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
(Xem xét báo cáo quyết toán có phản ánh trung thực hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không. Tính trung thực hợp lý được thể hiện trên các mặt như tình hình đầu tư, khối lượng, chất lượng của công trình và thời giá được qui định theo khu vực thi công.
(Xem xét báo cáo quyết toán lập ra có đúng mẫu biểu, đúng qui định của riêng lĩnh vực XDCB và đúng các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán được chấp nhận rộng rãi hay không.
(Xem xét việc thực hiện quản lý đầu tư và thi công xây dựng có đúng trình tự và đúng qui định hay không. Đồng thời, xem xét về toàn bộ số vốn đầu tư hợp lý tính vào công trình, số vốn đầu tư duyệt bỏ, và số vốn đầu tư tài sản lưu động như thế nào…Để đạt được mục đích trên, ta phải đi sâu vào từng mục đích cụ thể như sau:
Thứ nhất: Xem xét tính tuân thủ về qui chế quản lý đầu tư xây dựng, các thủ tục và trình tự thi công công trình, từ khi thi công đến khi hoàn thành.
Thứ hai: Xem xét sự tuân thủ và tính hợp lý, hợp pháp của các định mức, dự toán, thiết kế, quá trình cung ứng vật tư, thiết bị…
Thứ ba: Xem xét việc cấp phát vốn và thanh toán vốn có đúng tốc độ, tiến độ thi công, đúng khối lượng thực tế của công trình theo qui định hay không.
Thứ tư: Xem xét tính hợp lý của số vốn đầu tư đã cấp, đã sử dụng, đã thanh toán có phù hợp với tình hình thực tế hay không.
Thứ năm: Xác định giá trì tài sản cố định hình thành qua đầu tư một cách đúng đắn hợp lý.
Thứ sáu: Xem xét và xác định giá trị tài sản lưu động, chi phí được duyệt bỏ đúng quy định.
Thông qua các mục đích cụ thể này sẽ đạt được mục đích chung hay độ tin cậy của báo cáo quyết toán vốn đầu tư khi công trình hoàn thành. Việc kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT luôn nổi bật đó là kiểm toán tuân thủ, vì tất cả quá trình thực hiện đầu tư, quản lý, đều phải tuân theo qui định về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và các chi phí lại luôn được quản lý chặt chẽ theo định mức, dự toán hay việc chi tiêu đã được định mức, dự toán hoá ở mức độ cao. Ngoài các mục đích kiểm toán như trên, riêng đối với kiểm toán Nhà nước mục đích kiểm toán xuất phát từ các chức năng nhiệm vụ mà nó còn phải đạt được các mục đích sau đây:
( Phát hiện các hiện tượng gian lận, vi phạm chính sách chế độ, các hiện tượng tiêu cực để qua đó uốn nắn sai lệch. Kiến nghị với các cơ quan chức năng để xử lý vi phạm, thu hồi số mất mát về cho Nhà nước.
( Thông qua kiểm toán nhằm đánh giá về trách nhiệm, sự chấp hành và chất lượng quá trình quản lý thực hiện đầu tư của các bên có liên quan đến công trình. Qua đó, kiến nghị với các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng để xử lý hạn chế và kiến nghị đề xuất các biện pháp nhằm hoàn thiện về cơ chế quản lý.
2.Những đặc trưng cơ bản của kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình xây dựng cơ bản hoàn thành.
Kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT là một trường hợp kiểm toán báo cáo tài chính, song nó lại có nhiều điểm khác biệt so với kiểm toán báo cáo tài chính. Sự khác biệt đó thể hiện trên các điểm như sau:
Một là, kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT là một trường hợp đặc thù của kiểm toán báo cáo tài chính.
Đầu tư XDCB là một lĩnh vực có tính đặc thù riêng có, do đặc điểm của ngành, của sản phẩm, của quá trình đầu tư, quá trình quản lý tạo nên. Do vậy, hệ thống báo cáo tài chính quy định cho lĩnh vực này cũng có sự khác biệt với các lĩnh vực khác. Nước ta, hệ thống báo cáo tài chính quy định cho lĩnh vực đầu tư XDCB bao gồm hệ thống báo cáo vốn đầu tư hàng năm và hệ thống BCQTVĐTCTXDCBHT. Nội dung và kết cấu của từng báo cáo trong từng hệ thống báo cáo này có những đặc thù riêng có. Vì vậy, kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT là một trường hợp đặc thù của kiểm toán báo cáo tài chính. Điều này đòi hỏi kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán phải nắm được hệ thống BCQTVĐTCTXDCBHT mới đạt kết quả.
Hai là, kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT là một sự kết hợp chặt chẽ giữa ba loại kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động trong cùng một cuộc kiểm toán.
Trong XDCB, do đặc điểm riêng của lĩnh vực này nên được quy định một cách chặt chẽ hơn, ngoài những quy định chung, trong lĩnh vực XDCB còn quy định nghiêm ngặt hơn về trình tự đầu tư XDCB, về quản lý, cấp phát, thanh quyết toán, chấp hành định mức, dự toán, khối lượng, thiết kế,…Đặc biệt lại có sự quy định về tiêu chuẩn chất lượng kỹ thuật như vật tư, thiết bị, lao động, thời gian. Vì vậy, kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT là một sự kết hợp chặt chẽ giữa các loại kiểm toán trên.
Ba là, kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBT là một trường hợp đặc thù của kiểm toán báo cáo tài chính song nổi bật lại là kiểm toán tuân thủ.
Trong XDCB khác với các lĩnh vực khác, để tạo ra sản phẩm XDCB phải qua rất nhiều khâu, nhiều giai đoạn được quy định một cách chặt chẽ: từ khảo sát, thiết kế, lập luận chứng thi công, cấp phát,…Tất cả mọi khoản chi tiêu phải đúng định mức, dự toán, đúng mục đích và trình tự cấp phát thanh toán cũng như đúng khối lượng thực tế. Trong XDCB đặc điểm nổi bật là mọi khoản chi tiêu đều được định mức, dự toán hoá đến mức cao. Do vậy, tính tuân thủ trong XDCB là một đặc điểm nổi bật nhằm đảm bảo chất lượng công trình và tiết kiệm vốn đầu tư. Chính từ đặc điểm này mà Báo cáo 01 trong hệ thống BCQTVĐTCTXDCBHT là “Các văn bản pháp lý liên quan đến công trình” (Mẫu số 01/QTĐT) còn báo cáo 01 trong hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp là “Bảng cân đối kế toán”. Do vậy, khi kiểm toán, kiểm toán viên phải nắm được những quy định riêng có của lĩnh vực XDCB và của riêng từng công trình, hạng mục công trình.
Bốn là, kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT có một đặc trưng riêng là không có khái niệm “Kiểm toán năm sau”.
Trong XDCB, mỗi sản phẩm có đặc điểm riêng, chúng đều có thiết kế, phương pháp thi công riêng, vị trí thi công hoàn toàn khác nhau. Chính điều này không cho phép chu kỳ sản xuất kinh doanh lặp đi lặp lại như hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, kiểm toán đầu tư XDCB luôn là những vấn đề mới đầy khó khăn và phức tạp, điều này đã đặt ra yêu cầu cho kiểm toán viên phải luôn vận động, nắm bắt những cái mới và đi sâu nghiên cứu nắm vững đặc điểm của từng công trình, hạng mục công trình. Mỗi một cuộc kiểm toán là một hệ thống các vấn đề mới nảy sinh đặt ra đòi hỏi kiểm toán viên phải đủ khả năng để giải quyết. Kể cả kiểm toán báo cáo kế toán vốn đầu tư hàng năm nhưng cũng là phần thi công tiếp theo chứ không phải là sự lặp lại của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Năm là, hiểu về hệ thống kiểm soát nội bộ và quá trình nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ trong kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT cũng khác với kiểm toán báo cáo tài chính nói chung.
Sản phẩm đầu tư XDCB được tạo bởi quá trình thi công và sự kiểm soát nhiều bên có liên quan đến công trình, như cơ quan chủ quản đầu tư, cơ quan thiết kế, cấp phát, chủ đầu tư,…Vì vậy, hệ thống kiểm soát nội bộ đối với BCQTVĐTCTXDCBHT bao gồm 2 nội dung:
(Hệ thống kiểm soát nội bộ của bản thân chủ đầu tư.
(Hệ thống kiểm soát nội bộ đối với công trình có liên quan đến nhiều bên tham gia quản lý thi công công trình như kiểm soát của chủ quản đầu tư, thiết kế, cấp phát, cho vay…Đây là vấn đề khác biệt của KSNB đối với BCQTVĐTCTXDCBHT. Còn KSNB đối với báo cáo tài chính chỉ đơn thuần là kiểm soát của bản thân doanh nghiệp, đơn vị được kiểm toán. Từ đặc điểm này, yêu cầu kiểm toán viên khi kiểm toán không những phải biết được hệ thống kiểm soát nội bộ của chính chủ đầu tư mà còn phải biết được quá trình kiểm soát của nhiều bên liên quan đến công trình mới đáp ứng được yêu cầu kiểm toán trong lĩnh vực XDCB.
Sáu là, nội dung kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT cũng khác với nội dung kiểm toán báo cáo tài chính.
Nội dung kiểm toán báo cáo tài chính chỉ là những nội dung cấu thành báo cáo tài chính được quy định trong hệ thống báo cáo tài chính, còn nội dung kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT ngoài những nội dung kiểm toán được quy định trong hệ thống BCQTVĐTCTXDCBHT có khác với nội dung kiểm toán báo cáo tài chính, song một điểm khác biệt cơ bản đầu tiên đó là kiểm toán việc tuân thủ về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng mà trong kiểm toán báo cáo tài chính không có được. Đồng thời các nội dung kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính có thể phân loại theo hai cách là theo chu trình và theo khoản mục, nhưng nội dung kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT chỉ có một cách phân loại duy nhất là phân loại theo khoản mục vì chu kỳ sản xuất kinh doanh của XDCB không lặp lại.
Bảy là, việc đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT cũng khác với kiểm toán báo cáo tài chính.
XDCB là một lĩnh vực luôn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm tàng ở mức độ cao. Do vậy, việc đánh giá tính trọng yếu cũng thận trọng hơn kiểm toán báo cáo tài chính. Mặt khác, do đặc thù của XDCB và sản phẩm XDCB, mỗi công trình, hạng mục công trình luôn có đặc điểm riêng, thi công ở những lĩnh vực khác nhau. Do vậy, việc đánh giá tính trọng