Sau 8 năm kể từ ngày Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), số lượng doanh nghiệp tham hoạt động trên
thị trường bưu chính tại Việt Nam tăng lên nhanh chóng – 160 doanh
nghiệp, gấp 20 lần so với số doanh nghiệp năm 2007. Đa số các doanh
nghiệp bưu chính hoạt động ổn định và phát triển lành mạnh. Nhiều doanh
nghiệp đã từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng tốt để tham gia vào các hoạt
động thương mại điện tử đang trở thành trào lưu, xu hướng phát triển trên
toàn thế giới.
Các doanh nghiệp tham gia thị trường bưu chính phần đông là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ với mức vốn đầu tư hạn chế. Việc đầu tư xây dựng
mạng lưới bưu chính rộng khắp, đội ngũ lao động phù hợp, các thiết bị,
phương tiện cần thiết để đảm bảo chất lượng dịch vụ đã công bố, đảm bảo an
toàn cho bưu gửi, cho con người, cho hệ thống trang thiết bị là việc
không phải doanh nghiệp bưu chính nào đã có thể thực hiện được ngay khi
tham gia thị trường bưu chính. Do vậy, các doanh nghiệp bưu chính ngày
càng có xu hướng phải tìm kiếm sự kết nối mạng của các doanh nghiệp bưu
chính khác để cung ứng dịch vụ cho khách hàng.
Vấn đề kết nối mạng của các doanh nghiệp bưu chính (cùng sử dụng
chung cơ sở hạ tầng bưu chính) đã nhận được nhiều sự quan tâm và là chủ
đề của các nghiên cứu, các cuộc Hội thảo nhằm hướng tới sự đồng nhất
trong quan điểm của các bên liên quan (doanh nghiệp, cơ quan quản lý Nhà
nước các cấp, các tổ chức/cá nhân liên quan). Trong khuôn khổ của một đề
tài khoa học với sự giới hạn về thời gian và các nguồn lực để nghiên cứu nên
nhóm nghiên cứu đề tài sử dụng phương pháp phân tích và đánh giá hiện
trạng kết nối mạng bưu chính giữa các doanh nghiệp bưu chính, đồng thời
cập nhật kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này để làm cơ sở cho các đề xuất,
khuyến nghị về việc kết nối của các doanh nghiệp bưu chính tại Việt Nam
11 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 557 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo tóm tắt Đề tài - Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý việc kết nối mạng giữa các doanh nghiệp bưu chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
VỤ BƯU CHÍNH
BÁO CÁO TÓM TẮT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT
GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VIỆC KẾT NỐI MẠNG
GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP BƯU CHÍNH
Mã số: 68-15-KHKT-QL
Chủ trì đề tài: Nguyễn Vũ Hồng Thanh
Cộng tác viên: - Phạm Hồng Lê - Vụ Bưu chính
- Vũ Thu Thủy - Vụ Bưu chính
- Lê Văn Chung - Vụ Bưu chính
Hà Nội, tháng 11/2015
BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
VỤ BƯU CHÍNH
BÁO CÁO TÓM TẮT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT
GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VIỆC KẾT NỐI MẠNG
GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP BƯU CHÍNH
Mã số: 68-15-KHKT-QL
Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài Chủ trì đề tài
Nguyễn Vũ Hồng Thanh
Hà Nội, tháng 11/2015
Đề tài “Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý việc kết nối
mạng giữa các doanh nghiệp bưu chính” - Mã số 68-15-KHKT-QL
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Sau 8 năm kể từ ngày Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), số lượng doanh nghiệp tham hoạt động trên
thị trường bưu chính tại Việt Nam tăng lên nhanh chóng – 160 doanh
nghiệp, gấp 20 lần so với số doanh nghiệp năm 2007. Đa số các doanh
nghiệp bưu chính hoạt động ổn định và phát triển lành mạnh. Nhiều doanh
nghiệp đã từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng tốt để tham gia vào các hoạt
động thương mại điện tử đang trở thành trào lưu, xu hướng phát triển trên
toàn thế giới.
Các doanh nghiệp tham gia thị trường bưu chính phần đông là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ với mức vốn đầu tư hạn chế. Việc đầu tư xây dựng
mạng lưới bưu chính rộng khắp, đội ngũ lao động phù hợp, các thiết bị,
phương tiện cần thiết để đảm bảo chất lượng dịch vụ đã công bố, đảm bảo an
toàn cho bưu gửi, cho con người, cho hệ thống trang thiết bị là việc
không phải doanh nghiệp bưu chính nào đã có thể thực hiện được ngay khi
tham gia thị trường bưu chính. Do vậy, các doanh nghiệp bưu chính ngày
càng có xu hướng phải tìm kiếm sự kết nối mạng của các doanh nghiệp bưu
chính khác để cung ứng dịch vụ cho khách hàng.
Vấn đề kết nối mạng của các doanh nghiệp bưu chính (cùng sử dụng
chung cơ sở hạ tầng bưu chính) đã nhận được nhiều sự quan tâm và là chủ
đề của các nghiên cứu, các cuộc Hội thảo nhằm hướng tới sự đồng nhất
trong quan điểm của các bên liên quan (doanh nghiệp, cơ quan quản lý Nhà
nước các cấp, các tổ chức/cá nhân liên quan). Trong khuôn khổ của một đề
tài khoa học với sự giới hạn về thời gian và các nguồn lực để nghiên cứu nên
nhóm nghiên cứu đề tài sử dụng phương pháp phân tích và đánh giá hiện
trạng kết nối mạng bưu chính giữa các doanh nghiệp bưu chính, đồng thời
cập nhật kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này để làm cơ sở cho các đề xuất,
khuyến nghị về việc kết nối của các doanh nghiệp bưu chính tại Việt Nam.
Đề tài “Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý việc kết nối
mạng giữa các doanh nghiệp bưu chính” - Mã số 68-15-KHKT-QL
2
2. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đánh giá thực trạng việc kết nối mạng giữa các
doanh nghiệp trong cung ứng dịch vụ bưu chính và đề xuất các giải pháp
quản lý nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bưu chính,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và người sử dụng dịch
vụ bưu chính, báo cáo kết quả đề tài “Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng và đề
xuất giải pháp quản lý việc kết nối mạng giữa các doanh nghiệp bưu chính”
gồm có các nội dung:
Chương I: Nghiên cứu hiện trạng việc kết nối mạng giữa các doanh nghiệp
bưu chính tại Việt Nam
Chương II: Nghiên cứu, cập nhật thông tin về quản lý kết nối mạng giữa các
doanh nghiệp bưu chính tại một số nước
Chương III: Tổng hợp, phân tích và đánh giá về các vấn đề liên quan đến kết
nối mạng bưu chính
Chương IV: Đề xuất các giải pháp quản lý kết nối mạng giữa các doanh
nghiệp bưu chính
CHƯƠNG I: HIỆN TRẠNG KẾT NỐI MẠNG
GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP BƯU CHÍNH TẠI VIỆT NAM
I. Các quy định của pháp luật về cung ứng dịch vụ bưu chính
Trong phần này, báo cáo đã đề cập đến các căn cứ pháp lý về bưu
chính có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bưu chính trong
kết nối mạng (Khoản 1 Điều 29 và khoản 9 Điều 3 Luật bưu chính quy định
doanh nghiệp Việt Nam có quyền thiết lập mạng bưu chính, Khoản 2 Điều 6
của Nghị định số 47/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 quy định về “Hồ sơ đề
nghị cấp GPBC” thì doanh nghiệp phải cung cấp bản “Thỏa thuận với doanh
nghiệp khác, đối tác nước ngoài bằng tiếng Việt đối với trường hợp kết nối
mạng cung ứng một, một số hoặc tất cả các công đoạn của dịch vụ bưu chính
Đề tài “Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý việc kết nối
mạng giữa các doanh nghiệp bưu chính” - Mã số 68-15-KHKT-QL
3
đề nghị cấp phép”, Khoản 3 Điều 6 của Nghị định số 47/2011/NĐ-CP ngày
17/6/2011 quy định về “Phương án kinh doanh” thì doanh nghiệp phải cung
cấp các thông tin về “Phương thức cung ứng dịch vụ do doanh nghiệp tự tổ
chức hoặc kết nối mạng cung ứng dịch vụ với doanh nghiệp khác (trường
hợp kết nối mạng với doanh nghiệp khác, doanh nghiệp đề nghị cấp giấy
phép bưu chính phải trình bày chi tiết về phạm vi kết nối mạng, công tác
phối hợp trong việc bảo đảm an toàn, an ninh, giải quyết khiếu nại và bồi
thường thiệt hại cho người sử dụng dịch vụ)” và Điều 2 của Giấy phép bưu
chính cấp cho các doanh nghiệp bưu chính quy định về nghĩa vụ của doanh
nghiệp là “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng dịch vụ,
kể cả trường hợp (doanh nghiệp) kết nối mạng với doanh nghiệp khác để
chấp nhận, vận chuyển và phát thư”).
Như vậy, pháp luật về bưu chính đã có quy định về quyền và nghĩa vụ
của các doanh nghiệp bưu chính khi kết nối mạng để cung ứng dịch vụ trên
cơ sở các bên có sự thống nhất về công tác phối hợp để đảm bảo an toàn, an
ninh bưu chính, giải quyết khiếu nại và bồi thường thiệt hại cho người sử
dụng dịch vụ.
II. Các doanh nghiệp trên thị trường dịch vụ bưu chính ở Việt Nam
Trong phần này, báo cáo cung cấp các thông tin chung về doanh
nghiệp bưu chính hoạt động trên thị trường cũng như các số liệu về dịch vụ,
doanh thu, theo đó:
- Hiện nay, trên thị trường bưu chính có các doanh nghiệp bưu chính
thuộc đủ mọi loại hình doanh nghiệp tham gia hoạt động với nguồn vốn đầu
tư khác nhau:
* Phân nhóm doanh nghiệp Nhà nước hoặc có vốn Nhà nước: Tổng
công ty Bưu điện Việt Nam (VNPost), Tổng công ty Viễn thông quân đội
(Viettel), Công ty CP dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài gòn (SPT)...
* Phân nhóm doanh nghiệp tư nhân: Các doanh nghiệp chuyên kinh
doanh dịch vụ chuyển phát nhanh như Công ty cổ phần chuyển phát nhanh
Đề tài “Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý việc kết nối
mạng giữa các doanh nghiệp bưu chính” - Mã số 68-15-KHKT-QL
4
Tín thành, Tổng công ty Cổ phần Chuyển phát nhanh Hợp Nhất, Công ty Cổ
Phần Thương mại và Chuyển phát nhanh Nội Bài (Netco), .... các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hoá và hành khách trên một số tuyến
đường cũng kết hợp cung cấp dịch vụ chuyển phát (Công ty TNHH vận tải
Bus Hải Phòng, Công ty TNHH vận tải Hoàng Long, Công ty cổ phần vận
tải tốc hành Mai Linh, Công ty TNHH vận tải Việt Đức...);
* Phân nhóm các tổ chức chuyển phát nước ngoài: gồm các công ty
chuyển phát toàn cầu (TNT, DHL, FEDEX, UPS, JNE, ...) hoạt động tại Việt
Nam dưới hình thức công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh hoặc
ủy thác đại lý cho các doanh nghiệp bưu chính trong nước.
- Các dịch vụ bưu chính cung ứng trên thị trường ngày càng nhiều hơn
về số lượng dịch vụ và đa dạng về chất lượng dịch vụ (nhanh hơn, an toàn và
tiện ích hơn ) để tạo ra nhiều sự lựa chọn cho các đối tượng khách hàng.
Bên cạnh các dịch vụ bưu chính cơ bản (của VNPost), nhiều dịch vụ được
cung ứng trên thị trường đáp ứng nhu cầu “ngay và luôn” của khách hàng về
tốc độ chuyển phát (dịch vụ chuyển phát nhanh 90 phút giữa các Văn phòng
của Bus Hải Âu; Chuyển phát nhanh trước 9h, 12h, 16h của Netco,
Viettel Post ). Ngoài ra, các doanh nghiệp bưu chính đã chủ động và linh
hoạt cung ứng các dịch vụ bưu chính đáp ứng các nhu cầu ‘riêng’ của các
khách hàng đối với các sản phẩm đặc biệt, như: dịch vụ Kiểm đếm chi tiết
(Viettel Post, EMS), dịch vụ Hàng hóa giá trị cao (FutaExpress), là dịch
vụ chuyển phát dành cho các đơn hàng có giá trị cao và khi phát, doanh
nghiệp và người nhận sẽ đồng kiểm chi tiết về nội dung đơn hàng; dịch vụ
Phát hàng thu tiền – COD (VNPost, Viettel Post, Netco, FutaExpress ),
dịch vụ người nhận trả cước (EMS), dịch vụ EMS Hồ sơ xét tuyển, EMS
Visa (EMS), dịch vụ cung cấp và chuyển quà tặng Noel (Viettel Post)
Doanh thu thuần từ dịch vụ bưu chính đạt được sự tăng trưởng hàng
năm (tăng từ trên 200 triệu USD năm 2010 lên hơn 300 triệu USD năm
2013, xấp xỉ 150%). Như vậy, trong bối cảnh nền kinh tế khu vực và toàn
cầu cũng như nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn thì ở lĩnh vực bưu
Đề tài “Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý việc kết nối
mạng giữa các doanh nghiệp bưu chính” - Mã số 68-15-KHKT-QL
5
chính ở Việt Nam số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường bưu chính tăng
nhanh và doanh thu khai thác được từ thị trường này tăng bình quân 10-15%
so với năm trước.
CHƯƠNG II: NGHIÊN CỨU, CẬP NHẬT THÔNG TIN VỀ QUẢN
LÝ KẾT NỐI MẠNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP BƯU CHÍNH
TẠI MỘT SỐ NƯỚC
Theo báo cáo của Văn phòng Quốc tế Liên minh Bưu chính thế giới
(UPU), hiện nay nhiều quốc gia thành viên của tổ chức này đã mở cửa thị
trường, cho phép nhiều nhà khai thác tham gia cung ứng dịch vụ bưu chính.
Do vậy, vấn đề kết nối mạng bưu chính giữa các doanh nghiệp đã, đang và
sẽ tiếp tục là chủ đề được các doanh nghiệp bưu chính, các cơ quan quản lý
nhà nước tại các quốc gia này quan tâm, đề cập đến, thậm chí, ở một số nước
đã có các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề này để đảm bảo việc kết nối
mạng/kết nối giữa các doanh nghiệp được thực hiện trên cơ sở bình đẳng,
các bên cùng có lợi và trên hết là đảm bảo quyền lợi của người sử dụng dịch
vụ bưu chính.
Do điều kiện nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế có nhiều hạn chế bởi
các thông tin về nội dung kết nối mạng giữa các doanh nghiệp không được
công bố rộng rãi cũng như các quy định về quản lý nội dung này cũng chưa
được nhiều nước đưa vào văn bản luật bởi đây cũng còn là vấn đề phức tạp,
còn nhiều tranh luận. Vì thế, với sự nỗ lực cao, nhóm nghiên cứu đề tài đã
nghiên cứu thêm một số mô hình (như Croatia, New Zealand), đồng thời cố
gắng bổ sung, cập nhật thông tin về vấn đề này đối với một số mô hình đã
được đề cập trong đề tài trước đây (như Anh, USA).
Dù ở mỗi nước, các quy định của cơ quan quản lý Nhà nước hoặc thỏa
thuận của các doanh nghiệp về kết nối mạng khác nhau do chính sách của
từng quốc gia hoặc yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp để đảm bảo chất lượng
dịch vụ kết nối mạng nhưng điểm dễ nhận thấy là hiện nay, ở nhiều quốc
gia, việc hợp tác không chỉ diễn ra theo chiều hướng các doanh nghiệp bưu
chính tư nhân kết nối vào mạng bưu chính công cộng mà còn theo hướng
Đề tài “Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý việc kết nối
mạng giữa các doanh nghiệp bưu chính” - Mã số 68-15-KHKT-QL
6
doanh nghiệp được chỉ định (Bưu chính các nước) kết nối vào mạng của các
doanh nghiệp bưu chính khác. Đây là xu hướng tất yếu, khi các doanh
nghiệp bưu chính cùng lớn mạnh trên thị trường và cùng tận dụng khả năng
vượt trội của các doanh nghiệp đối tác để cùng phát triển. Ở các nước, kết
nối mạng được xem như là một dịch vụ mà các doanh nghiệp có năng lực
cung cấp cho các doanh nghiệp khác và dịch vụ này đang mang lại lợi ích
cho tất cả các bên.
CHƯƠNG III: TỔNG HỢP, PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ CÁC VẤN ĐỀ
LIÊN QUANĐẾN KẾT NỐI MẠNG BƯU CHÍNH
Trong Chương này, báo cáo đã đưa ra những phân tích, đánh giá của
nhóm nghiên cứu đề tài về vấn đề kết nối mạng giữa các doanh nghiệp bưu
chính, theo đó, có thể thấy, hiện nay việc kết nối mạng của các doanh nghiệp
bưu chính tại Việt Nam còn mang tính tự phát, chưa có quy định pháp luật
cũng như các doanh nghiệp bưu chính (kể cả VNPost) cũng chưa có các quy
định về vấn đề này nên phạm vi, trách nhiệm của các doanh nghiệp tham gia
vào quá trình cung ứng dịch vụ không được quy định rõ ràng, quyền và lợi
ích của chính các doanh nghiệp này không được pháp luật bảo vệ nếu các
điều khoản hợp đồng thỏa thuận giữa các bên không chặt chẽ, dẫn đến khó
có thể đảm bảo quyền lợi của người sử dụng dịch vụ khi phát sinh khiếu nại
hoặc có sự tranh chấp giữa các bên có liên quan.
Báo cáo đã phân tích khá kỹ các khía cạnh của vấn đề kết nối mạng
giữa các doanh nghiệp bưu chính, như: Chủ thể tham gia kết nối mạng, Hợp
đồng thỏa thuận về kết nối mạng, phiếu gửi sử dụng khi kết nối mạng, chất
lượng dịch vụ khi kết nối mạng (thời gian giải quyết khiếu nại, thời gian
toàn trình), bao bì sử dụng khi kết nối, ứng dụng công nghệ thông tin khi kết
nối mạng, thời gian giao-nhận bưu gửi, giá cước, công tác báo cáo của
doanh nghiệp).
Kết quả phân tích, đánh giá sẽ là sở cứ để nhóm nghiên cứu đề tài đề
xuất giải pháp quản lý
Đề tài “Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý việc kết nối
mạng giữa các doanh nghiệp bưu chính” - Mã số 68-15-KHKT-QL
7
CHƯƠNG IV: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VIỆC KẾT NỐI
MẠNG GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP BƯU CHÍNH
Kết quả đạt được của việc nghiên cứu vấn đề kết nối mạng giữa các
doanh nghiệp bưu chính cho thấy:
- trong môi trường kinh doanh bưu chính “mở” với sự tham gia của
nhiều nhà khai thác bưu chính thì việc kết nối mạng giữa các doanh
nghiệp này là tất yếu và cần thiết vì xuất phát từ nhu cầu nâng cao
hiệu quả nguồn lực xã hội và hiệu quả đầu tư, kinh doanh của doanh
nghiệp;
- các văn bản pháp luật về bưu chính hiện hành đã có các quy định về
kết nối mạng, nhưng các quy định này mới chỉ là các quy định chung,
mang tính khái quát và chưa đề cập đến các yêu cầu cụ thể để quản lý
việc kết nối mạng của các doanh nghiệp;
- từ nhu cầu thực tiễn của việc hợp tác trong cung ứng dịch vụ bưu
chính, các doanh nghiệp bưu chính tại Việt Nam đã thực hiện kết nối
mạng, nhưng hoạt động kết nối mạng giữa các doanh nghiệp còn khá
nhiều bất cập, như: 1/ Các doanh nghiệp hợp tác, kết nối mạng chủ
yếu mang tính tự phát. 2/ Các hợp đồng thỏa thuận còn sơ sài, nội
dung chưa hoàn toàn phù hợp với tính chất hợp tác hoặc các cam kết
chưa thực sự bình đẳng giữa các bên . Do vậy, nếu xảy ra các
trường hợp vi phạm các điều khoản thỏa thuận thì rất dễ xảy ra tranh
chấp, bất lợi cho các bên liên quan (trong đó có cả người sử dụng dịch
vụ).
Do vậy, để góp phần giải quyết những tồn tại trong quản lý đối với vấn
đề này, báo cáo đã đề cập đến các đề xuất mà nhóm nghiên cứu đề tài đã
đưa ra, bao gồm:
1/ Giải pháp quản lý:
- Hoàn thiện các quy định của pháp luật về kết nối mạng giữa các doanh
nghiệp bưu chính: Do hiện nay, các quy định của pháp luật về bưu chính về
Đề tài “Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý việc kết nối
mạng giữa các doanh nghiệp bưu chính” - Mã số 68-15-KHKT-QL
8
kết nối mạng mới chỉ là các nguyên tắc chung và chỉ ra quyền của các doanh
nghiệp được kết nối mạng khi cung ứng dịch vụ mà chưa có các quy định cụ
thể hơn để các doanh nghiệp phải tuân thủ nhằm đảm bảo sự bình đẳng, các
bên cùng có lợi khi hợp tác, kết nối mạng. Vì vậy, việc ban hành một văn
bản quy phạm pháp luật (một Thông tư của Bộ Thông tin và Truyền thông)
là cần thiết (gồm các nội dung cần được quy định trong văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh hoạt động kết nối mạng, như: Nguyên tắc kết nối mạng,
Điểm kết nối mạng, Điều kiện kết nối mạng, Thủ tục kết nối mạng, Quyền
và nghĩa vụ của doanh nghiệp kết nối, Chất lượng, giá cước kết nối, Hợp
đồng kết nối, Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong kết nối mạng giữa các
doanh nghiệp bưu chính).). Đây cũng là giải pháp tiền đề cho việc thực
hiện các giải pháp khác.
- Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật và hỗ trợ pháp lý thông qua ,
một số hình thức tuyên truyền, hỗ trợ pháp lý về hoạt động kết nối để các
doanh nghiệp nhận thức về bản chất của hoạt động kết nối mạng và thực
hiện việc kết nối mạng như một dịch vụ cung ứng cho các doanh nghiệp
khác, như: Hội thảo, hội nghị, tọa đàm, giải đáp vướng mắc theo nhiều kênh
(Q&A trên Trang thông tin điện tử của Bộ hoặc qua hotline, e-mail ).
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, nhóm nghiên cứu đề tài
cũng đề xuất đẩy mạnh các hoạt động hậu kiểm với sự tham gia của nhiều
đơn vị liên quan.
2/ Tổ chức thực hiện
Để việc triển khai các giải pháp quản lý nêu trên hiệu quả, góp phần
nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bưu chính, đảm bảo một
môi trường kinh doanh bưu chính cạnh tranh lành mạnh cũng như tạo điều
kiện để các doanh nghiệp bưu chính không chỉ là đối thủ mà trở thành đối
tác của nhau trong cung ứng dịch vụ cho khách hàng thì nhóm nghiên cứu đề
tài thấy rằng một số nội dung công việc cần được thực hiện, cụ thể:
1/Đối với giải pháp thứ nhất: Việc “Nghiên cứu, xây dựng Thông tư quy
định về việc kết nối mạng giữa các doanh nghiệp bưu chính” cần được các
Đề tài “Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý việc kết nối
mạng giữa các doanh nghiệp bưu chính” - Mã số 68-15-KHKT-QL
9
đơn vị chức năng thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông sớm triển khai thực
hiện.
2/ Đối với giải pháp thứ hai: Các đơn vị có liên quan (Vụ Bưu chính, Vụ
Pháp chế, Trung tâm thông tin) cần phối hợp để có kế hoạch trình Lãnh đạo
Bộ phê duyệt việc đưa vào chương trình phổ biến pháp luật hàng năm cũng
như bổ sung mục Giải đáp, hỗ trợ pháp lý bưu chính trên Trang thông tin
điện tử của Bộ với chủ đề về kết nối mạng.
3/ Đối với giải pháp thứ ba: Thanh tra Bộ là đơn vị đầu mối, phối hợp với
các đơn vị liên quan (Vụ Bưu chính, Vụ Pháp chế) để có các chương trình,
kế hoạch thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kết nối mạng phù hợp.
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu đề tài thấy rằng, việc thực hiện giải pháp
thứ nhất vẫn là nhiệm vụ trọng tâm, cần thực hiện trước hết và là tiền đề cho
các giải pháp thứ hai và thứ ba được triển khai bởi hiện nay các quy định của
pháp luật về vấn đề này chưa đủ cụ thể để buộc các doanh nghiệp bưu chính
thống nhất triển khai. Do vậy, mặc dù việc thực hiện trên thực tế còn nhiều
vấn đề vướng, nhưng các quy định của pháp luật chưa đủ rõ để thực hiện các
giải pháp này.
Trên đây là báo cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu,
đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý việc kết nối mạng giữa các
doanh nghiệp bưu chính” – mã số 68-15-KHKT-QL. Nhóm nghiên cứu xin
báo cáo Hội đồng nghiệm thu Bộ Thông tin và Truyền thông và xin được
nghe ý kiến tham gia, góp ý của các thành viên Hội đồng và các đại biểu dự
buổi họp nghiệm thu để nhóm nghiên cứu đề tài tiếp thu và chỉnh sửa cho
bản báo cáo được hoàn chỉnh.
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn Hội đồng và các quý vị đại
biểu tham dự buổi nghiệm thu đề tài.