Việt Nam đã đạt được những thành công nhanh chóng về kinh
tế và tiến bộ đáng kể về xã hội chỉ trong hai thập kỷ qua, đạt
được vị thế quốc gia có thu nhập dưới trung bình năm 2009. Là
quốc gia dẫn đầu khu vực Châu Á- thái bình Dương trong việc
đạt được hầu hết các mục tiêu Phát triển thiên Niên kỷ (mDG)
ở cấp quốc gia và đang trong kế hoạch đạt được các mục tiêu
khác vào năm 2015. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á, và
thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Quyền trẻ em (CRC)
vào năm 1990, và đã tiếp tục thể hiện sự lãnh đạo có tầm nhìn
cho xấp xỉ 30 triệu trẻ em (khoảng một phần ba tổng dân số).
Việt Nam rõ ràng đã đạt được những tiến bộ lớn cho trẻ em và
trong thời gian khá ngắn.
24 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2017 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tóm tắt phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
bỐI CẢNH PHÁt tRIểN Và QUẢN tRỊ CủA QUỐC GIA
Việt Nam đã đạt được những thành công nhanh chóng về kinh
tế và tiến bộ đáng kể về xã hội chỉ trong hai thập kỷ qua, đạt
được vị thế quốc gia có thu nhập dưới trung bình năm 2009. Là
quốc gia dẫn đầu khu vực Châu Á- thái bình Dương trong việc
đạt được hầu hết các mục tiêu Phát triển thiên Niên kỷ (mDG)
ở cấp quốc gia và đang trong kế hoạch đạt được các mục tiêu
khác vào năm 2015. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á, và
thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Quyền trẻ em (CRC)
vào năm 1990, và đã tiếp tục thể hiện sự lãnh đạo có tầm nhìn
cho xấp xỉ 30 triệu trẻ em (khoảng một phần ba tổng dân số).
Việt Nam rõ ràng đã đạt được những tiến bộ lớn cho trẻ em và
trong thời gian khá ngắn.
Nhưng vẫn còn một bộ phận trẻ em và vị thành niên ở Việt Nam
tiếp tục sống trong điều kiện chưa được hưởng quyền và chưa
hòa nhập với xã hội. Ví dụ, chăm sóc y tế có chất lượng, giáo
dục trung học và nước sạch vẫn chưa tiếp cận được một cách
bình đẳng với mọi trẻ em.tình trạng không hòa nhập xã hội do
một vài nhân tố gây ra bao gồm sự chênh lệch về kinh tế, bất
bình đẳng giới và sự khác biệt đáng kể giữa vùng nông thôn và
thành thị, cũng như giữa các vùng địa lý. Người dân tộc thiểu số
vẫn là nhóm người nghèo nhất và ít được hưởng lợi nhất từ sự
phát triển kinh tế của quốc gia. Nghèo đói vẫn khiến một số trẻ
em bỏ học, sống lang thang hoặc tham gia vào các hành vi có
nguy cơ như làm mại dâm để kiếm sống.
Có những nhân tố kinh tế và chính trị quan trọng lý giải sự phát
triển kinh tế xã hội lớn trong thời gian gần đây. Những nhân tố này
bao gồm quá trình Đổi mới, là sự chuyển đổi mô hình kinh tế tạo
ra những chuyển biến chính về mặt kinh tế chưa từng có của đất
nước. Gần đây, những thay đổi về phát triển và kinh tế xã hội
nhanh chóng trong mười năm qua, và những tiến bộ đạt được
liên quan đến mDGs đã tạo ra bối cảnh toàn diện cho đất nước.
Việt Nam đã có những cam kết quan trọng đối với các điều ước
quốc tế nhân quyền, và đã lồng ghép những cam kết này vào các
văn bản luật pháp và chính sách quốc gia quan trọng để cải thiện
cuộc sống của trẻ em. Việc phân bổ ngân sách cho các lĩnh vực
2 bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
xã hội (đặc biệt là y tế và giáo dục) và đối với giảm nghèo đã tăng,
cho thấy cam kết ngày càng gia tăng của Chính phủ.
Vấn đề bất bình đẳng giới vẫn có một số thách thức. Những
thách thức này bao gồm tỷ lệ tử vong bà mẹ cao, đặc biệt ở khu
vực vùng núi và vùng sâu vùng xa, buôn bán phụ nữ, bạo lực gia
đình, mất cân bằng trong tỷ lệ giới tính khi sinh và tỷ lệ nạo phá
thai cao.
Trẻ em nghèo ở Việt Nam hiện nay còn phổ biến và còn nghiêm
trọng hơn những gì người ta thường nghĩ. Điều này là bởi vì
những kỹ thuật và phương pháp được sử dụng để đo lường
nghèo trẻ em ở Việt Nam, tập trung vào những trẻ em sống trong
các hộ gia đình được xác định là nghèo theo chuẩn nghèo về
tiền tệ của quốc gia, trên thực tế có những hạn chế quan trọng.
Do đó cần phải nghĩ về nghèo trẻ em theo cách mới, bao gồm
sử dụng các biện pháp mới để đo lường nghèo trẻ em, và những
cách mới để lồng ghép các mối quan tâm về trẻ em nghèo vào
thiết kế và thực thi các chính sách công.
Việt Nam gần đây đã xây dựng cách tiếp cận đa chiều đối với
nghèo trẻ em, dựa vào một số nhóm: giáo dục, y tế, dinh dưỡng,
nơi ở, nước và vệ sinh, lao động trẻ em, giải trí, hòa nhập xã hội và
bảo vệ. Sử dụng cách tiếp cận này, khoảng 1/3 số trẻ em dưới 16
tuổi là nghèo. Số lượng này xấp xỉ 7 triệu trẻ em. Không có sự khác
biệt nào đáng kể giữa nam và nữ, nhưng có sự khác biệt lớn giữa
khu vực thành thị-nông thôn, và sự khác biệt giữa các vùng miền.
Cách đo lường đa chiều này và nghèo về tiền tệ xác định được các
nhóm trẻ em khác nhau, cho thấy hai cách này đưa ra hai bức tranh
khác nhau về nghèo trẻ em.
3bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
Hình 1: Nghèo trẻ em đa chiều và nghèo trẻ em tiền tệ, 2008
5
26
13
61
21
13
34
22
62
29
0
10
20
30
40
50
60
70
Thành thị Nông thôn Trẻ em dân tộc
Kinh/Hoa
Trẻ em dân tộc
Thiểu số
Chung
Nghèo trẻ em tiền tệ Nghèo trẻ em đa chiều
P
hầ
n
tră
m
Nguồn: GSO (2010) Kết quả khảo sát Mức sống hộ gia đình Việt Nam 2008
Hình 2: Nghèo trẻ em đa chiều và nghèo trẻ em tiền tệ theo
vùng, 2008
12
41
26
33
3
16
11
46
22
39
13
53
0
10
20
30
40
50
60
Đồng bằng
sông Hồng
Vùng trung du
và miền núi
phía Bắc
Bắc Trung bộ
và Duyên hải
miền Trung
Tây nguyên Đông bắc Đồng bằng sông
Cửu long
Nghèo trẻ em tiền tệ Nghèo trẻ em đa chiều
Ph
ần
tr
ăm
Nguồn: GSO (2010) Kết quả khảo sát Mức sống hộ gia đình Việt Nam 2008
bên cạnh khuôn khổ pháp luật sâu rộng về quyền trẻ em, Việt
Nam cũng đã thực hiện một số các chính sách và chương
trình quốc gia quan trọng để thúc đẩy và bảo vệ phúc lợi của
4 bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
trẻ em. Những chương trình và chính sách này bao gồm các
Chương trình mục tiêu Quốc gia, các Chương trình hành động vì
trẻ em và các chính sách phúc lợi và an sinh xã hội.
Có nhiều cơ quan chịu trách nhiệm chính đối với quyền trẻ
em. Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và các tổ
chức đoàn thể xã hội và chính trị thông qua các chương trình,
chiến lược, chính sách, nghị quyết và chỉ thị về mặt chính trị, và
bằng cách giám sát việc thực hiện các chương trình này. Quốc
Hội, thực hiện vai trò giám sát tối cao các hoạt động của Nhà
nước bao gồm một số ủy ban làm việc trực tiếp liên quan đến
trẻ em, như ủy ban Văn hóa, Giáo dục, thanh thiếu niên và Nhi
đồng (Ub VH-GD-ttN&NĐ), ủy ban Các vấn đề xã hội, ủy ban
Kinh tế và ủy ban tài chính và Ngân sách.
trong Chính phủ, bộ Lao động, thương binh và Xã hội (bộ LĐ-
tb&XH) chịu trách nhiệm quản lý nhà nước đối với quyền trẻ
em, cùng với các bộ ngành có liên quan khác đóng vai trò chủ
chốt trong các lĩnh vực tương ứng của họ như bộ Y tế về sức
khỏe bà mẹ và trẻ em, và bộ Giáo dục và Đào tạo đối với giáo
dục tiểu học, trung học và mầm non. Ngành tư pháp đóng vai trò
quan trọng, và Việt Nam đã có những nỗ lực không ngừng để
cải thiện khuôn khổ pháp lý cho trẻ em và làm rõ cơ cấu tổ chức và
hoạt động của tòa án.
Xã hội dân sự đang dần dần phát triển, và vai trò quan trọng
của nó ngày càng được thừa nhận. Các tổ chức đoàn thể
thuộc mặt trận tổ quốc hoạt động rất tích cực ở cấp cơ sở. Các
cơ quan truyền thông tham gia vào việc cải thiện truyền thông
liên quan đến quyền trẻ em, bao gồm nâng cao nhận thức về
các vấn đề chủ chốt.
Gia đình là nền tảng và là đơn vị xã hội cơ bản ở Việt Nam.
Hiện nay có xu hướng tiến tới gia đình hạt nhân, có nhiều hộ gia
đình do nữ giới làm chủ hộ hơn và có sự gia tăng về đổ vỡ gia
đình. Vai trò về giới trong gia đình vẫn còn hiện hữu.
một tập hợp các đối tượng chịu trách nhiệm quan trọng đối với
trẻ em là các nhà cung cấp dịch vụ công lập và ngoài công
lập. trong thập kỷ qua, khu vực tư nhân đã đóng vai trò ngày
5bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
càng quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội liên quan
đến trẻ em, kết quả là các chính sách của Chính phủ về “xã hội
hóa” các dịch vụ xã hội cơ bản. theo chính sách này, phí người
sử dụng đã được đưa ra. Năm 2006, các hộ gia đình dành hơn
6% tổng chi tiêu hàng tháng vào giáo dục và tỷ lệ tương tự dành
cho y tế, hơi tăng từ năm 2002 khi các tỷ lệ này là dưới 6%. Xu
hướng hiện nay cho thấy có sự bất bình đẳng gia tăng về chất
lượng và số lượng các dịch vụ công giữa nguời dân thành thị và
nông thôn, và giữa người giàu và người nghèo. Các điều kiện
kinh tế kém phát triển cũng cản trở việc cung cấp các dịch vụ
công có liên quan đến trẻ em ở các tỉnh nghèo (chủ yếu là nông
thôn).
Việc lập kế hoạch và lập ngân sách khá phức tạp và diễn ra ở
nhiều cấp. Khuôn khổ lập kế hoạch quan trọng nhất là Kế hoạch
Phát triển kinh tế-xã hội quốc gia 5 năm (KHPt KtXH) trên
cơ sở các kế hoạch của ngành và các KHPt KtXH năm được
xây dựng ở các cấp địa phương. Việt Nam hiện đang cải cách
các quá trình lập kế hoạch và lập ngân sách để phù hợp hơn với
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và với
bối cảnh phân cấp quản lý nhà nước. Phân bổ ngân sách cho
quyền trẻ em được bao gồm trong dòng ngân sách cho ngành
như y tế cơ bản và giáo dục. Chi ngân sách nhà nước cho các
lĩnh vực xã hội, đặc biệt là y tế, giáo dục đang tăng dần, y tế
chiếm 4% và giáo dục và đào tạo chiếm gần 14% chi ngân sách
trung ương trong năm 2007, so với 3% và 11% tương ứng trong
năm 2000.
Chính phủ đã đầu tư vào việc xây dựng và tăng cường các hệ
thống giám sát. Đã có các chỉ số liên quan cụ thể đến trẻ em và
các cuộc khảo sát quốc gia thu thập dữ liệu về trẻ em. Và hiện
đang thực hiện việc điều phối và tập hợp tất cả các dữ liệu liên
quan đến quyền trẻ em và các chỉ số vào hệ thống dữ liệu trung
ương. Hiện chưa có cơ quan giám sát quyền trẻ em độc lập,
như ủy ban Quyền trẻ em đã khuyến nghị năm 2003, mặc dù
đã có nhiều cơ quan (Ví dụ Quốc Hội, bộ LĐ-tb&XH và tổng
cục thống kê) giám sát tác động của các luật pháp, chính sách
và sáng kiến cụ thể liên quan đến trẻ em.
6 bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
7bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
Sự sống còn của trẻ em
Tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và trẻ nhỏ đã giảm xuống còn một
nửa trong giai đoạn từ năm 1990-2006, nhưng những cách biệt
vẫn còn tồn tại, với việc tỷ lệ tử vong cao hơn ở khu vực dân
tộc thiểu số, người rất nghèo và những người sống ở vùng sâu
vùng xa. bệnh tật ở trẻ em còn phổ biến bao gồm các lây nhiễm
đường hô hấp, tiêu chảy, và sốt xuất huyết. Độ bao phủ của tiêm
chủng thường là cao trong cả nước, nhưng cũng có sự khác
nhau giữa các vùng. Việt Nam có tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
thể thấp còi cao (3 trẻ em dưới 5 tuổi thì có 1 em bị suy dinh
dưỡng thể thấp còi), và tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn
đối với trẻ dưới 6 tháng tuổi còn rất thấp (17%). Việc bổ sung
các vi chất có độ bao phủ rộng nhưng vẫn còn có thách thức.
Các chương trình kế hoạch hóa gia đình quốc gia nhắm vào đối
tượng các cặp vợ chồng, chứ chưa xem xét đến những thanh
niên chưa kết hôn nhưng có hoạt động tình dục. thanh niên và
vị thành niên chưa có kiến thức đầy đủ về sức khỏe sinh sản,
có nhiều em nam (29%) chưa nhận thức được về các lây nhiễm
qua đường tình dục so với các em nữ (17%) ở khu vực nông
thôn. tỷ lệ tử vong bà mẹ ước tính 75 trên 100.000 ca sinh sống
vào năm 2008, nhưng tỷ lệ này ở người dân tộc thiểu số và vùng
núi, vùng sâu vùng xa còn cao hơn 4 lần. một vấn đề phát sinh
quan trọng là tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh (112 trẻ trai so
với 100 trẻ gái).
Khoảng 243.000 người sống chung với HIV và AIDS vào năm
2009, và con số này có thể cao hơn do thiếu xét nghiệm HIV.
Ước tính khoảng trong 10 người nhiễm HIV dương tính ở Việt
Nam thì có 1 người dưới 19 tuổi và hơn một nửa các ca nhiễm
HIV rơi vào nhóm người trẻ tuổi từ 20 – 29 tuổi. mặc dù tỷ lệ có
HIV đang tăng ở phụ nữ mang thai, nhưng một số ít được cung
cấp thông tin đều đặn về HIV và AIDS trong các lần khám thai.
Dịch bệnh HIV và AIDS hiện không chỉ còn xuất hiện ở nhóm
người có nguy cơ cao; trẻ em có nguy cơ bị nhiễm HIV cao nhất
bao gồm trẻ em lang thang, trẻ em sử dụng ma túy và trẻ em
làm mại dâm. Kỳ thị và phân biệt đối xử với người bị ảnh hưởng
bởi HIV và AIDS vẫn còn phổ biến.
8 bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
tỷ lệ dùng nước sạch và vệ sinh đã cải thiện (89% dân số tiếp
cận với nước sạch vào năm 2006), và hầu hết các trường học
có nguồn nước và nhà tiêu (tương ứng với 80% và 73%), nhưng
chưa đến 1 nửa trong số này đáp ứng các tiêu chuẩn quốc gia.
Sự khác biệt trong tiếp cận với nước sạch và vệ sinh còn rõ ràng
giữa các vùng và thành phần dân tộc. Nước và vệ sinh không an
toàn là thách thức chính ở Việt Nam, gây ra khoảng một nửa số
bệnh lây nhiễm trong cả nước.
Thương tích ở trẻ em là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử
vong ở trẻ em từ 1 tuổi trở lên. trong năm 2007, có 7.894 trẻ em
và thanh niên lứa tuổi từ 0-19 đã chết vì các nguyên nhân liên
quan đến thương tích. Hầu hết các thương tích gây tử vong là
do đuối nước, tai nạn giao thông, bị vật sắc nhọn đâm vào và
bị ngộ độc. Khung pháp lý còn chưa đầy đủ và việc thực thi các
văn bản luật pháp đã ban hành còn yếu. một nguy cơ mới đối
với phúc lợi của trẻ em là sự nhận thức kém của cha mẹ, người
chăm sóc và các cán bộ có trách nhiệm về tầm quan trọng của
phòng chống tai nạn thương tích và những cách tiếp cận tốt nhất
trong lĩnh vực này.
Có nhiều chính sách quốc gia, chương trình, chiến lược,
quyết định, nghị định và các chuẩn mực đã được xây dựng
để hỗ trợ quyền trẻ em đối với y tế và sống còn. Có những
thách thức tiềm ẩn đối với đáp ứng của quốc gia: Cần phải có sự
điều phối tốt hơn giữa các ngành và các bộ trong việc đáp ứng
với các vấn đề lồng ghép như dinh dưỡng, thương tích trẻ em,
và HIV và AIDS, cần phải phân bổ ngân sách nhiều hơn cho y tế
(đặc biệt là y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe ban đầu), cần
phải có các quy trình giám sát và đánh giá thu thập số liệu định
kỳ tốt hơn. Độ bao phủ, chất lượng và sự phù hợp của các dịch
vụ y tế trong cả nước, đặc biệt là ở khu vực vùng núi vùng sâu,
vùng xa, nơi dân số chủ yếu là người dân tộc thiểu số, cũng cần
phải được cải thiện.
mỗi bộ ngành có liên quan có trách nhiệm cụ thể trong lĩnh vực
sống còn và sức khỏe của trẻ em. bộ Y tế rõ ràng là có trách
nhiệm tổng thể, nhưng vai trò của bộ NN-PtNt (ví dụ trong việc
thiết kế các chuẩn mực, cung cấp dịch vụ và điều phối cấp nước
nông thôn), bộ GD&Đt (áp dụng các chuẩn mực được thiết kế
9bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
cho trường học an toàn cho trẻ em) và bộ LĐ-tb&XH (trong vận
động, huy động các nguồn lực, và điều phối các hoạt động lồng
ghép để phòng ngừa thương tích trẻ em) cũng rất quan trọng.
một chủ đề xuyên suốt trong lĩnh vực sống còn của trẻ em là sự
đầu tư chưa đầy đủ cả về tài chính và nguồn nhân lực. mặc dù
chi tiêu công về y tế đã tăng đáng kể trong thời gian qua, nhưng
vẫn có những khu vực chưa có đủ nguồn lực (như thiếu và năng
lực cán bộ y tế địa phương thấp, thu thập dữ liệu, sức khỏe sinh
sản vị thành niên, vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường) vẫn
còn tồn tại. một vấn đề quan trọng khác là sự khác biệt về độ
bao phủ và việc sử dụng các dịch vụ y tế giữa các vùng, giữa
khu vực nông thôn và thành thị, giữa các nhóm dân tộc. Các
dịch vụ y tế đôi lúc chưa đủ thân thiện với người sử dụng (cán
bộ y tế thường thiếu kỹ năng trong việc tham vấn, xét nghiệm và
duy trì tính bảo mật thông tin), hoặc chưa được trang bị đủ để
cung cấp các dịch vụ ở mức độ mà chuẩn quốc gia đòi hỏi. Cha
mẹ và những người chăm sóc thường thiếu kiến thức và năng
lực về cách chăm sóc sức khỏe, bao gồm việc cho trẻ sơ sinh
và trẻ nhỏ ăn, và giữ vệ sinh cá nhân cơ bản.
Cũng có những khó khăn về môi trường, như thiếu nước ở
một số nơi, có thể ảnh hưởng tới tiến bộ về sống còn và sức
khỏe trẻ em. Chăm sóc sức khỏe sinh sản chưa được ghi nhận
hoặc được thực hiện đầy đủ, giáo dục sức khỏe sinh sản và giáo
dục giới tính trong nhà trường vẫn phàn nào còn là điều cấm kỵ.
Phụ nữ tiếp cận hạn chế với thông tin về các dịch vụ sức khỏe
sinh sản, và hành vi của họ liên quan đến việc sử dụng các biện
pháp tránh thai và các dịch vụ trước khi sinh có xu hướng do
các mối quan hệ trong gia đình và mối quan hệ giới tính truyền
thống, trình độ học vấn và các điều kiện kinh tế quyết định.
10 bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
11bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
Giáo dục và phát triển trẻ em
Đã có những tiến bộ đáng kể trong những năm gần đây liên
quan đến chăm sóc và phát triển trẻ thơ, với 79% trẻ em ở
độ tuổi từ 3-5 đi học mẫu giáo năm 2008. một vấn đề nảy sinh
là phạm vi chăm sóc và giám sát của cha mẹ, với 19% trẻ em
từ 0-59 tháng tuổi hoặc là bị để ở nhà một mình hoặc là được
trẻ khác dưới 10 tuổi trông nom trong năm 2006. tỷ lệ nhập học
tiểu học vượt 90% ở tất cả các nhóm dân số trừ dân tộc thiểu số
và cũng là nhóm người nghèo nhất trong dân số. tỷ lệ chuyển
tiếp sang trung học cơ sở là 91%. Chất lượng giáo dục cũng là
một vấn đề cần quan tâm, với cách tiếp cận dựa vào giáo trình,
bài giảng, phương pháp dạy không cùng tham gia, chương trình
học không phù hợp và năng lực của giáo viên còn thấp là những
điểm hạn chế.
Học sinh dân tộc thiểu số chiếm khoảng 18% số học sinh tiểu
học và 15% số học sinh trung học cơ sở. tỷ lệ nhập học tiểu học
của trẻ em dân tộc thiểu số là khoảng 80%, và tỷ lệ hoàn thành
bậc học này là khoảng 68% và 45% cho bậc trung học. trẻ em
dân tộc thiểu số sống chủ yếu ở vùng núi, thường là xa trường
học. Nếu các em có thể đến trường, thì rào cản ngôn ngữ lại
là cản trở chính đối với việc đạt được giáo dục có chất lượng.
tiếng Việt là ngôn ngữ dạy học chính, và hầu hết trẻ em dân tộc
thiểu số không nói tiếng Việt khi các em bắt đầu đi học. Và giáo
viên thường không thể dạy bằng tiếng dân tộc. tỷ lệ trẻ em gái
người dân tộc thiểu số nhập học và đi học thấp nhất trong bất
kể nhóm nào. Nhóm trẻ này cũng có tỷ lệ lưu ban và bỏ học cao
nhất, tỷ lệ hoàn thành bậc tiểu học thấp nhất và tỷ lệ chuyển tiếp
từ tiểu học sang trung học thấp nhất.
Khoảng 52% trẻ em khuyết tật không đi học. Có ba cách tiếp
cận đối với giáo dục cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam: trường
học chuyên biệt (chỉ nhận trẻ khuyết tật), trường học hội nhập
(trường học đặc biệt cho trẻ em khuyết tật vào học chung với
môi trường học tập hòa nhập) và trường học hòa nhập (trường
học bình thường thực hiện mô hình giáo dục hòa nhập có thể
tạo điều kiện nhận 2 trẻ em khuyết tật vào một lớp).
12 bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
Việt Nam đã đầu tư vào việc thúc đẩy quyền trẻ em đối với vui
chơi và giải trí. Các trường học là địa điểm quan trọng cho trẻ
em vui chơi và tham gia vào các hoạt động vui chơi. trẻ em ở
một số vùng nông thôn Việt Nam có thể bắt đầu lao động khi mới
6 tuổi, và khi trẻ lớn hơn, các em có thể được giao cho những
công việc quan trọng. Cùng với trách nhiệm học hành, điều này
giảm sự quan tâm và thời gian cho việc vui chơi. Chính phủ đã
đầu tư xây dựng các cơ sở giải trí cho trẻ em và tổ chức các
hoạt động vui chơi và giải trí khác nhau, nhưng vẫn cần phải đầu
tư nhiều hơn vào khu vực vùng núi, vùng sâu vùng xa, nơi trẻ
em có ít tiếp cận với các nơi vui chơi, giải trí.
Đáp ứng quốc gia đối với giáo dục rất ấn tượng. trong lĩnh
vực chăm sóc và phát triển trẻ thơ, ví dụ như Chính phủ đã nêu
rõ rằng mục tiêu là để cải thiện phúc lợi của trẻ em theo cách
toàn diện, đặt nền tảng cho tính cách và giúp các em tiếp tục
học tiểu học. Các văn bản quy phạm pháp luật chính trong giáo
dục bao gồm Luật Phổ cập Giáo dục tiểu học năm 1991 (đã đạt
được), Luật Giáo dục năm 2005 và Kế hoạch Chiến lược phát
triển giáo dục 2001-2010 nhằm mục tiêu duy trì phổ cập giáo dục
tiểu học và đạt được phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010. Đã
có Kế hoạch hành động quốc gia về giáo dục cho trẻ em khuyết
tật 2001-2010, và chính sách giáo dục hòa nhập đang được xây
dựng. Khuôn khổ pháp lý của Việt Nam hỗ trợ mạnh mẽ cho việc
sử dụng tiếng mẹ đẻ trong trường học, và Chính phủ đang thử
nghiệm một số mô hình dạy học song ngữ nhằm thực hiện các
chính sách phù hợp nhất cho trẻ em dân tộc thiểu số. Phân bổ
ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo đã tăng, và là một
phần quan trọng trong chi tiêu công (khoảng 16 % trong năm
2007). tuy nhiên, các hộ gia đình cũng dành một phần lớn thu
nhập của mình chi cho giáo dục, nhiều