Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt, sự ra đời của nhiều loại hình kinh doanh mới đa dạng, phong phú, hoạt động kiểm toán với chức năng xác minh và bày trò ý kiến nhằm tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng có vai trò quan trọng. Đồng thời, nền kinh tế thị trường phát triển kéo theo sự phức tạp, rắc rối, đan xen của thực trạng tài chính và của các nghiệp vụ kế toán. Thực tế này đòi hỏi các kiểm toán viên phải có đủ trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghiệp vụ tương ứng để thực hiện được chức năng của mình. Việc xác minh các thông tin tài chính khó khăn hơn dẫn đến sự gia tăng của rủi ro kiểm toán.
Trong những năm gần đây, những vụ kiện các Công ty kiểm toán ngày càng tăng lên cả về quy mô, số lượng, số tiền bào chữa, có vụ kiện mà số tiền để giải quyết hậu quả lên đến hàng trăm triệu đô la. Điều này đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến uy tín của ngành nghề kiểm toán.
Ở Việt Nam, sự phá sản của một số doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp Nhà nước) trong mấy năm trở lại đây đã đặt ra một vấn đề: Trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) và Công ty kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán đã được phát hành như thế nào? Trong những trường hợp nào KTV và Công ty kiểm toán phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng và cho bên thứ ba bị tổn thất do sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán, KTV và Công ty kiểm toán phải làm gì để tự bảo vệ trong trường hợp phải ra hầu toà?.
Nghiên cứu trách nhiệm pháp lý của kiểm toán độc lập (KTĐL) là một vấn đề hết sức quan trọng nhằm nâng cao uy tín nghề nghiệp kiểm toán, củng cố niềm tin cho những người sử dụng báo cáo kiểm toán, tạo ra sự yên tâm cho các kiểm toán viên và Công ty kiểm toán trong quá trình thực hiện công việc kiểm toán, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại, tổn thất không đáng có do những vụ kiện cáo gây ra.
Bố cục đề án:
Chương I- Thực trạng vấn đề trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và Công ty kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán.
Chương II- Một số kiến nghị trong vấn đề trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và Công ty kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán.
25 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 3183 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và công ty kiểm toán đối với kiểm toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt, sự ra đời của nhiều loại hình kinh doanh mới đa dạng, phong phú, hoạt động kiểm toán với chức năng xác minh và bày trò ý kiến nhằm tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng có vai trò quan trọng. Đồng thời, nền kinh tế thị trường phát triển kéo theo sự phức tạp, rắc rối, đan xen của thực trạng tài chính và của các nghiệp vụ kế toán. Thực tế này đòi hỏi các kiểm toán viên phải có đủ trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghiệp vụ tương ứng để thực hiện được chức năng của mình. Việc xác minh các thông tin tài chính khó khăn hơn dẫn đến sự gia tăng của rủi ro kiểm toán.
Trong những năm gần đây, những vụ kiện các Công ty kiểm toán ngày càng tăng lên cả về quy mô, số lượng, số tiền bào chữa, có vụ kiện mà số tiền để giải quyết hậu quả lên đến hàng trăm triệu đô la. Điều này đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến uy tín của ngành nghề kiểm toán.
Ở Việt Nam, sự phá sản của một số doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp Nhà nước) trong mấy năm trở lại đây đã đặt ra một vấn đề: Trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) và Công ty kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán đã được phát hành như thế nào? Trong những trường hợp nào KTV và Công ty kiểm toán phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng và cho bên thứ ba bị tổn thất do sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán, KTV và Công ty kiểm toán phải làm gì để tự bảo vệ trong trường hợp phải ra hầu toà?...
Nghiên cứu trách nhiệm pháp lý của kiểm toán độc lập (KTĐL) là một vấn đề hết sức quan trọng nhằm nâng cao uy tín nghề nghiệp kiểm toán, củng cố niềm tin cho những người sử dụng báo cáo kiểm toán, tạo ra sự yên tâm cho các kiểm toán viên và Công ty kiểm toán trong quá trình thực hiện công việc kiểm toán, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại, tổn thất không đáng có do những vụ kiện cáo gây ra.
Do tầm quan trọng của việc nghiên cứu trách nhiệm pháp lý của KTĐL nên em đã chọn đề tài "Trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và Công ty kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán" làm đề án môn học. Với tầm hiểu biết còn hạn hẹp, nguồn tài liệu chưa được phong phú, đa dạng nên chắc chắn đề án của em còn rất nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo trong khoa kế toán kiểm toán trường ĐHKTQD để đề án của em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Hồng Thuý đã tận tình hướng dẫn để em có thể hoàn thành đề án này.
Bố cục đề án:
Chương I- Thực trạng vấn đề trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và Công ty kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán.
Chương II- Một số kiến nghị trong vấn đề trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và Công ty kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán.
CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA KIỂM TOÁN VIÊN (KTV) VÀ CÔNG TY KIỂM TOÁN ĐỐI VỚI
BÁO CÁO KIỂM TOÁN (BCKT)
I- Một số thuật ngữ liên quan đến trách nhiệm pháp lý của kiểm toán độc lập:
1- Lý thuyết chung:
Trước hết, để có thể nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm pháp lý của KTV và Công ty kiểm toán đối báo cáo kiểm toán thì cần làm rõ một số khái niệm, thuật ngữ sau:
* Báo cáo kiểm toán:
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700: Báo cáo kiểm toán là loại báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên và Công ty kiểm toán lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về báo cáo tài chính của một đơn vị đã được kiểm toán.
* Kiểm toán viên:
Kiểm toán viên là khái niệm chung chỉ những người làm công tác kiểm toán cụ thể có trình độ nghiệp vụ tương xứng với công việc đó.
* Sự vi phạm hợp đồng: là việc không thực hiện các điều khoản ghi trên hợp đồng của một hoặc của cả hai bên, ví dụ như kéo dài thời gian kiểm toán, giao báo cáo kiểm toán chậm, gây khó khăn, thậm chí gây tổn thất cho khách hàng trong hoạt động kinh doanh, khách hàng không cung cấp đầy đủ chứng từ, tài liệu kế toán phục vụ cho cuộc kiểm toán theo yêu cầu của kiểm toán viên.
* Những nguyên tắc đạo đức cơ bản của kiểm toán viên:
Theo những chuẩn mực và nguyên tắc kiểm toán quốc tế do IFAC (International Federation of Accountants - Liên đoàn kế tóan quốc tế) ban hành từ 1 - 1980 đến 9 - 1990 thì nguyên tắc đạo đức cơ bản của KTV bao gồm:
+ Chính trực: KTV phải là người thẳng thắn, trung thực, thật thà trong quá trình tiếp cận công việc nghiệp vụ của mình.
+ Khách quan: KTV phải là người công minh, không được phép định kiến, thiên vị khi lập BCKT các báo cáo tài chính KTV phải giữ thái độ vô tư.
+ Độc lập: Khi hành nghề KTV phải thể hiện mình là người không bị vật chất chi phối. Bất cứ biểu hiện vụ lợi nào đều không phù hợp với phẩm cách chính trực, khách quan.
+ Bí mật: KTV phải tôn trọng tính bí mật của những thông tin thu thập được trong quá trình hành nghề và không tiết lộ bất cứ thông tin nào cho người thứ ba khi không có sự uỷ thác đặcbiệt hoặc nghĩa vụ pháp lý hay nghĩa vụ nghề nghiệp yêu cầu phải tiết lộ.
+ Các chuẩn mực nghiệp vụ: KTV phải tiến hành công việc nghiệp vụ của mình theo những chuẩn mực nghiệp vụ chuyên ngành phù hợp với công việc đó.
+ Trình độ nghiệp vụ: KTV có nghĩa vụ phải duy trì trình độ nghiệp vụ của mình trong suốt quá trình hành nghề, KTV chỉ nhận làm những việc mà bản thân hoặc hãng của mình có đủ trình độ nghiệp vụ hoàn thành công việc đó.
+ Đạo đức ứng xử: KTV phải tự điều chỉnh mình cho phù hợp với uy tín của ngành nghề và tự kiềm chế những đức tính có thể phá hoại uy tín nghề nghiệp.
* Gian lận và sai sót
+ Giai lận là hành vi cố ý lừa dối, dấu diếm, xuyên tạc sự thật với mục tiêu tự lợi; Gian lận có thể được thể hiện dưới các dạng: Xử lý chứng từ theo ý muốn chủ quan, sửa đổi, xuyên tạc làm giả các chứng từ, tài liệu, dấu diếm những thông tin tài liệu hoặc nghiệp vụ, ghi chép nghiệp vụ không đúng sự thật, áp dụng sai các nguyên tắc kế toán một cách cố ý.
+ Sai sót:
Sai sót thường được hiểu là sự nhầm lẫn hoặc bỏ sót không chú ý đến các đối tượng ảnh hưởng đến báo cáo tài chính như: lỗi về tính toán số học hay ghi chép sai, áp dụng sai các nguyên tắc kế toán, bỏ sót hoặc hiểu sai các khoản mục.
* Quan hệ riêng theo hợp đồng
Là mối quan hệ trực tiếp giữa hai bên hoặc nhiều bên của một hợp đồng. Đối với một cuộc kiểm toán, khách hàng và bất kỳ bên thứ ba nào được nêu lên trong hợp đồng kiểm toán (thư hẹn kiểm toán) có mối quan hệ riêng theo hợp đồng.
2- Thực trạng về trách nhiệm pháp lý của KTV trong thời gian qua:
Một số vụ kiện tiêu biểu liên quan đến trách nhiệm pháp lý của KTV và Công ty kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán:
Từ khi hoạt động kiểm toán ra đời cho đến nay, đặc biệt từ những năm 30 của thế kỷ 20 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của ngành kiểm toán, trên phạm vi toàn thế giới hàng năm có rất nhiều cuộc kiểm toán diễn ra. Cùng với sự phức tạp của các ngành nghề kinh doanh, rủi ro kiểm toán là điều không tránh khỏi. Đã có rất nhiều vụ kiện cáo của các khách hàng và của bên thứ ba đối với các Công ty kiểm toán. Có thể nêu ra một số vụ kiện tiêu biểu sau:
a. Các vụ kiện liên quan đến trách nhiệm của Công ty kiểm toán đối với bên thứ ba:
* Công ty ULTRAMARES và TOUCHE (1931)
Năm 1931, Công ty Ultrmares không có khả năng trả nợ, các chủ nợ của Công ty dựa vào báo cáo tài chính đã được chứng nhận rồi sau đó kiện các kế toán viên, họ cho rằng các kế toán viên đã phạm tội bất cẩn và trình bầy gian dối. Các khoản phải thu đã bị bóp méo bằng cách cộng thêm khoảng 650.000 USD vào các khoản phải thu một khoản mục khác trên 700.000USD. Các chủ nợ cho rằng một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng sẽ tìm thấy 700.000 USD gian lận này. Các khoản phải trả cũng có những khoản không nhất quán tương tự.
Sau khi điều tra vấn đề, toà án liên bang Mỹ kết luận rằng các kiểm toán viên đã có bất cẩn trong quá trình kiểm toán, tuy nhiên kiểm toán viên không phải chịu trách nhiệm đối với các chủ nợ của Công ty Ultramares vì điều sai lầm vượt ra ngoài phạm vi của hợp đồng kiểm toán ban đầu. Toà án cho rằng chỉ có người ký hợp đồng với kiểm toán viên về các dịch vụ kiểm toán mới có thể kiện nếu các dịch vụ đó được cung cấp một cách bất cẩn.
Vụ kiện này là cơ sở cho sự ra đời của cái gọi là "học thuyết Ultramares". Theo học thuyết này, những bất cẩn thông thường không đủ ràng buộc trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên với bên thứ ba vì không có quan hệ riêng theo hợp đồng giữa bên thứ ba với kiểm toán viên. Ultramares cũng cho rằng chỉ khi có gian lận hoặc bất cẩn nghiêm trọng thì KTV có thể chịu trách nhiệm đối với bên hưởng lợi thứ ba.
* Stephens industries kiện Haskin and Sells (1971):
Năm 1971, người mua 2/3 cổ phiếu của Công ty cho thuê ô tô Stephens industries đã kiện Công ty kiểm toán Haskin and Sells vì bất cẩn khi kiểm toán các khoản phải thu. Tuy nhiên, theo hợp đồng kiểm toán thì số liệu của các khoản phải thu trên sổ sách của Công ty phải được giữ nguyên không có sự điều chỉnh và trong báo cáo kiểm toán, nhận xét của KTV đã nêu cụ thể: "Theo điều khoản của hợp đồng, chúng tôi không yêu cầu khách hàng phải xác nhận số dư của họ và cũng không xem xét lại khả năng thu của bất kỳ khoản phải thu thương mại nào". Việc không có sự điều chỉnh để phản ánh số tiền không thu được cũng được ghi rõ ở "các ghi chú trong Bảng cân đối tài sản".
Áp dụng "học thuyết Ultramares", toà án sơ thẩm cho rằng không có mối quan hệ riêng theo hợp đồng giữa bên nguyên đơn và KTV nên không tồn tại trách nhiệm pháp lý vì sự bất cẩn của KTV. Toà án phúc thẩm cũng đưa ra quyết định tương tự.
Hiện nay học thuyết " Ultramares" đã được mở rộng: đối với những người không có quan hệ theo hợp đồng với KTV, nhưng KTV thấy trước là sẽ sử dụng BCTC, thì nếu vì sự bất cẩn mà KTV gây ra thiệt hại cho những người này, KTV sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý.
Tuy nhiên vẫn còn những tranh cãi xung quanh học thuyết "Ultramares". Nhiều người cho rằng bất kể KTV có thấy trước những người sử dụng BCTC hay không thì KTV cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý mà do sự bất cẩn, KTV đã gây ra sự thiệt hại cho bên thứ ba.
b- Trách nhiệm của Công ty kiểm toán đối với khách hàng:
Công ty Cenco Incorporated kiện Seidman and Seidman (1982):
Giữa năm 1970 và 1975, các nhân viên quản trị của Cenco, sau đó cả ban quản trị cao cấp đã dính líu vào một vụ gian lận lớn là thỏi phồng giá trị hàng tồn kho của Công ty. Điều này đã giúp cho Công ty vay được tiền với lãi suất thấp hơn và đạt được tiền bồi thờng bảo hiểm hoả hoạn cao hơn mức đáng đựoc hưởng. Sau khi sự gian lận bị phát hiện bởi một nhân viên của Cenco và được báo cáo với SEC (Securities and Exchange Commission) các cổ đông đã đệ đơn kiện Công ty Cenco, Ban quản trị của Công ty và các kiểm toán viên của Công ty. Công ty kiểm toán đã dàn xếp cho vụ kiện tụng này bằng cách chi ra 3,5 triệu USD.
Sau đó, Ban quản lý mới của Công ty nhân danh Công ty Cenco đệ đơn kiện lần thứ hai Công ty kiểm toán vì vi phạm hợp đồng, bất cẩn nghề nghiệp và gian lận. Công ty kiểm toán đã bào chữa là mặc dù Công ty đã nỗ lực cố gắng để phát hiện ra dấu hiệu của sự gian lận nhưng tập thể phần lớn những người trong ban quản trị của Công ty Cenco đã ngăn cản họ phát hiện ra gian lận.
Kỳ họp thứ 7 của toà thượng thẩm đã kết luận là Công ty kiểm toán không chịu trách nhiệm trong trường hợp này. Việc làm sai trái của Ban quản trị Công ty Cenco được xem là lời bào chữa thích hợp chống lại lời buộc tội về vi phạm hợp đồng, bất cẩn và gian lận cho dù ban quản trị đó không còn làm việc cho Công ty nữa.
c- Trách nhiệm đối với tính bảo mật:
Công ty TNHH Fund of Funds kiện ArthurArderse và Công ty (1982):
Công ty Fund of Funds là một Công ty đầu tư chuyên về mua các quỹ hỗ trợ. Vào cuối thập niên 1970, Ban quản trị quyết định đa dạng hoá hoạt động kinh doanh bằng cách thực hiện các khoản đầu tư lớn vào bất động sản về khí đốt và dầu hoả. Khoảng 90 triệu USD đã đưa chi cho trên 400 mỏ thiên nhiên theo một thoả hiệp với Công ty King Resources. Bản thoả hiệp đã ký kết giữa Fund of Funds và King Resources quy định rằng tất cả bất động sản được bán trên căn cứ trao tay với giá thoả đáng cho cả 2 bên. Một sự kiện quan trọng trong trường hợp này là Công ty kiểm toán Arthur Anderse kiểm toán cho cả hai Công ty Fund of Funds và King Resources với hai hợp đồng riêng biệt và cả hai cuộc kiểm toán cho hai Công ty đều do cùng một kiểm toán viên chính tiến hành.
Trong quá trình kiểm toán, Công ty kiểm toán phát hiện giá bán bất động sản về khí đốt và dầu hoả của Công ty cho Công ty Fund of Funds cao hơn giá bán cho khách hàng khác của King Resources. Công ty kiểm toán không báo cáo thông tin này cho ban quản trị Fund of Funds và ban quản trị Fund of Funds không biết được sự kiện đó trong một thời gian khá lâu. Ban quản trị Fund of Funds cho rằng Công ty kiểm toán có bổn phận hoặc thông báo cho họ về sự vi phạm thoả hiệp hoặc từ chối một trong hai cuộc kiểm toán. Công ty kiểm toán thì cho rằng Công ty có trách nhiệm bảo mật thông tin theo các điều khoản về tư cách đạo đức trong bản quy tắc đạo đức nghề nghiệp.
Toà án liên bang Mỹ đã quyết định Công ty kiểm toán phải bồi thường thiệt hại cho các cổ đông của Fund of Funds 80 triệu USD, một phán quyết cao nhất dành cho Công ty kiểm toán cho đến thời điểm lúc đó.
d- Trách nhiệm hình sự:
Trong quá trình kiểm toán, nếu KTV có những vi phạm nghiêm trọng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự như trong trường hợp UNITED STATES kiện SIMON (1969): Vụ kiện này liên quan đến việc ba KTV bị kiện vì đệ trình các báo cáo giả đến một cơ quan Nhà nước và vi phạm đến luật trao đổi chứng khoán năm 1934.
Kết thúc vụ kiện ba KTV bị phạt tổng số tiền là 17000 USD và bị mất giấy chứng nhận KTVĐL theo điều 501 của bản điều lệ đạo đức nghề nghiệp (hành vi làm mất tín nhiệm) và bị buộc phải ra khỏi nghề. Sau đó, họ được tổng thống Nixơn ân xá.
Đó là một số vụ kiện tiêu biểu đã xẩy ra trong lịch sử hoạt động của kiểm toán. Có thể thấy rằng mâu thuẫn, tranh chấp giữa Công ty kiểm toán và những người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính thường xảy ra mỗi khi người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính bị thiệt hại bất kể lỗi là do ai. Ở Việt Nam, tuy chưa có vụ kiện nào đối với Công ty kiểm toán nhưng thời gian gần đây, khi hiện tượng các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp Nhà nước bị phá sản có chiều hướng tăng lên thì một câu hỏi được đặt ra là các Công ty kiểm toán có trách nhiệm như thế nào đối với báo cáo kiểm toán đã được phát hành.?
Vậy do đâu mà các vụ kiện Công ty kiểm toán ngày một nhiều hơn?
II- Những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng các vụ kiện Công ty kiểm toán:
a- Trên cơ sở nghiên cứu các vụ kiện đã xảy ra, rất nhiều chuyên gia kế toán và chuyên gia pháp luật cho rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các vụ kiện chống lại các Công ty kiểm toán bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết của những người sử dụng BCTC về sự khác nhau giữa sai lầm kinh doanh với sai lầm kiểm toán, giữa sai lầm kiểm toán và rủi ro kiểm toán.
Sai lầm kinh doanh xảy ra khi việc kinh doanh không có khả năng trả các món nợ hoặc khi công việc kinh doanh gặp khó khăn, không đáp ứng được mục tiêu của các nhà đầu tư. Nguyên nhân của sai lầm kinh doanh có thể là chủ quan hoặc khách quan, ví dụ như các nhà quản lý do không đủ trình độ chuyên môn đã đưa ra những quyết định quản lý tồi, do sự cạnh tranh khốc liệt và bất ngờ của các đối thủ... Trường hợp xấu nhất của sai lầm kinh doanh là doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản.
Sai lầm kiểm toán được hiểu là sai lầm của KTV trong việc đưa ra chương trình kiểm toán không phù hợp hoặc do không tuân thủ các quy định của chuẩn mực kiểm toán đã được thừa nhận dẫn đến đưa ra một kết luận kiểm toán sai lầm.
Rủi ro kiểm toán là khái niệm chỉ rõ sự tồn tại (trong dự toán hoặc trên thực tế) sai sót trọng yếu trong quá trình kiểm toán. Rủi ro kiểm toán bao gồm rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
Rủi ro tiềm tàng là sự tồn tại sai sót trọng yếu trong bản thân đối tượng kiểm toán (chưa tính đến sự tác động của bất kỳ hoạt động kiểm toán nào kể cả kiểm soát nội bộ).
Rủi ro kiểm soát là sự tồn tại sai sót trọng yếu mà hệ thống kiểm soát nội bộ không phát hiện và ngăn chặn kịp thời.
Rủi ro phát hiện là sự tồn tại sai sót trọng yếu mà hệ thống kiểm toán không phát hiện được.
Có thể thấy rằng trong bất kỳ một cuộc kiểm toán nào cũng tồn tại rủi ro không phát hiện được tất cả những sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính.. Cuộc kiểm toán bị giới hạn bởi việc chọn mẫu kiểm toán, hơn nữa khi những gian lận được che dấu kỹ càng một cách có chủ ý thì ngay cả khi KTV đã tuân thủ một cách nghiêm túc các chuẩn mực kiểm toán thì vẫn không thể phát hiện ra sai sót trọng yếu.
"Các chuẩn mực và nguyên tắc kiểm toán quốc tế" thừa nhận: "Khó tránh khỏi những rủi ro trong kiểm toán, thậm chí có những tài liệu giải trình sai mà vẫn không được phát hiện ra". Khoản 11 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 250 cũng cho rằng: "công việc kiểm toán luôn phải chịu rủi ro kiểm toán là rất khó phát hiện hết mọi sai sót làm ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, kể cả khi cuộc kiểm toán đã được lập kế hoạch và tiến hành thận trọng, đúng theo chuẩn mực kiểm toán. Nguyên nhân rủi ro kiểm toán gồm:
- Hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống kế toán của đơn vị không đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của các văn bản pháp luật và các quy định có liên quan đến hoạt động và báo cáo tài chính của đơn vị.
- Hệ thống KSNB và hệ thống kế toán có những hạn chế tiềm tàng trong việc ngăn ngừa và phát hiện sai phạm, nhất là những sai phạm do hành vi không tuân thủ pháp luật và các quy định.
- KTV sử dụng phương pháp chọn mẫu.
- Bằng chứng kiểm toán thường có tính xét đoán và thuyết phục nhiều hơn là tính khẳng định chắc chắn.
- Đơn vị có thể cố tình che dấu những vi phạm của mình (ví dụ: thông đồng, che dấu, giả mạo chứng từ, cố tình hạch toán sai...) hoặc cố tình cung cấp sai thông tin cho KTV".
Như vậy xét trên góc độ hoạt động nghề nghiệp thì cần phải chấp nhận rủi ro kiểm toán như một tất yếu khách quan và sai lầm kiểm toán độc lập tương đối với sai lầm kinh doanh. Về bản chất, kiểm toán chỉ có chức năng xác minh tính trung thực và hợp lý của các thông tin đã được trình bày trên báo cáo tài chính cho chính xác và hợp lý. Nhiều người tin rằng mỗi khi báo cáo kiểm toán được phát hành thì có nghĩa là khả năng tài chính, sự lớn mạnh và phát triển của Công ty được kiểm toán đã hoàn toàn được đảm bảo. Sự thiếu hiểu biết của những người sử dụng báo cáo tài chính đã khiến họ nhầm lẫn giữa trách nhiệm của Công ty được kiểm toán và KTV dẫn đến những vụ kiện không đáng có, gây tổn thất cho cả hai bên tham gia vụ kiện.
Nguyên nhân của tình trạng thiếu hiểu biết chủ yếu là do trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp ngày càng phải cạnh tranh khốc liệt hơn, việc thu hút vốn đầu tư, vay vốn từ các tổ chức tín dụng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của doanh nghiệp. Để đạt được mục đích của mình, doanh nghiệp đã sử dụng cụm từ "Báo cáo tài chính đã được kiểm toán" như một cứu cánh, cộng với việc những người sử dụng BCTC không tìm hiểu kỹ về bản chất của hoạt động kiểm toán, các phương tiện truyền thông có những hiểu biết không đúng về kiểm toán làm cho sự nhầm lẫn của những người sử dụng BCTC càng trở lên nghiêm trọng.
b- Tốc độ phát triển kinh tế của những nước kinh tế thị trường những năm gàn đây tương đối mạnh. Nhiều loại hình kinh doanh ra đời, cùng với nó là sự phát triển của công nghệ máy tính. Các phương pháp kế toán cổ điển đang từng bước được thay thế bằng các phương pháp kế toán tiên tiến hơn nhưng cũng phức tạp hơn, điều này đòi hỏi các KTV phải có trình độ nghiệp vụ tương ứng. Trong khi đó việc đào tạo KTV chưa được đồng bộ, đội ngũ KTV có bản lĩnh nghiệp vụ và giầu kinh nghiệm không đủ để đáp ứng khối lượng công việc ngày càng nhiều, các kiểm toán viên trẻ chưa có đủ bản lĩnh nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm nên việc mắc phải sai sót trong quá trình kiểm toán là khó tránh khỏi.
Lấy việc đào tạo nghề KTV ở nước ta làm ví dụ. Hiện nay, chỉ có một số trường đại học và cao đẳng lớn mới đào tạo cử nhân kiểm toán như trường đại học Kinh tế quốc dân... Việc thi tuyển lấy chứng chỉ hành nghề KTV được quy định thống nhất bởi Bộ Tài chính, t