Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ người làm chứng

Người làm chứng (NLC) là người biết về một tình tiết nào đó có ý nghĩa cho việc điều tra, xét xử vụ án và được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập tham gia vào vụ án để trình bày lời khai của mình (Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự [BLTTHS]). NLC tham gia vào vụ án trên cơ sở quyết định triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 133 BLTTHS). Bên cạnh những thuộc tính chung như bất kỳ chứng cứ nào thì lời khai NLC có những đặc điểm riêng. Đó là tính không thể thay thế của nó. Một người không thể đồng thời vừa là NLC vừa là bị can, vừa là NLC vừa là người giám định. Lời khai NLC là loại chứng cứ mà nguồn của nó là những con người cụ thể - tính cá biệt cao. Những thông tin về vụ án được phản ánh và tái hiện lại qua lời khai của những con người cụ thể hoàn toàn khác nhau về tâm lý, về kinh nghiệm xã hội, về tính cách và nhân cách. Lời khai NLC, thủ tục tuyên thệ (cam đoan) chỉ nói sự thật của NLC trước tòa có cội nguồn xa xưa. So với nhiều chế định khác thì chế định NLC là một trong những chế định cổ xưa nhất của tố tụng hình sự (TTHS). Từ bao đời nay lời khai của NLC luôn được nhìn nhận là nguồn chứng cứ để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Trong lịch sử phát triển của khoa học TTHS, chế định NLC đã trải qua những thăng trầm nhất định và ngày nay lời khai của NLC chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống chứng cứ của TTHS nhiều nước trên thế giới. Hoạt động tố tụng càng có tính tranh tụng bao nhiêu, sự bình đẳng về quyền của các bên trong hoạt động chứng minh càng được thừa nhận đầy đủ bao nhiêu thì lời khai NLC càng được sử dụng phổ biến bấy nhiêu. Niềm tin vào lời khai NLC trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án là một phần niềm tin của con người vào sự công minh, khách quan của hoạt động xét xử. Có thể nói là trong tương lai dù khoa học kỹ thuật có phát triển đến đâu đi nữa, dù máy móc tự động có thể thay thế hoạt động của con người trong nhiều lĩnh vực khác nhau đi chăng nữa thì lời khai NLC vẫn có vai trò to lớn trong hoạt động xét xử. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật chỉ có thể mở rộng khả năng, làm thuận tiện hơn, dễ dàng hơn quá trình thu thập, lưu trữ, truyền tải và sử dụng lời khai NLC nhưng không thể thay thế lời khai NLC. Lời khai NLC vẫn là một trong những công cụ không thể thiếu được trong quá trình làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Ở Liên bang Nga khi thăm dò ý kiến của các thẩm phán về việc chứng cứ nào mà họ cho là quan trọng nhất trong hoạt động xét xử thì kết quả trả lời cho thấy lời khai NLC chiếm vị trí số một, thứ hai là kết luận giám định và thứ ba là lời khai người bị hại. Điều này có thể hiểu được bởi lẽ NLC khác với người bị hại (NBH). NBH là nạn nhân trực tiếp của hành vi tội phạm nên lời khai của họ có thể phản ánh đậm nét hơn những đánh giá, cảm xúc chủ quan của họ về các tình tiết của vụ án so với lời khai của NLC. Lời khai NBH không chỉ là nguồn chứng cứ làm sáng tỏ sự thật của vụ án mà còn là lời buộc tội, là công cụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người đó. Trình bày lời khai không chỉ là nghĩa vụ tố tụng mà đồng thời còn là quyền tố tụng của NBH. Ở góc độ này NBH được nhìn nhận là chủ thể thực hiện chức năng buộc tội. Còn NLC là chủ thể của chức năng hỗ trợ tư pháp - chức năng không cơ bản trong TTHS. Chức năng này hiện chưa được đề cập nhiều trong khoa học TTHS ở nước ta. Sự hạn chế về lý luận khoa học này chính là nguyên nhân chậm thay đổi trong tư duy lập pháp khi sửa đổi BLTTHS 2003 và thái độ đối xử không công bằng với NLC trong thực tiễn tố tụng. Khách quan mà nói thì BLTTHS 2003 có một số bổ sung về quyền của NLC so với BLTTHS 1988 như quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của mình; quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của người, cơ quan có thẩm quyển tiến hành tố tụng, quyền được thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật (Điều 55 BLTTHS 2003). Đây là tín hiệu đáng mừng về sự thay đổi tư duy lập pháp về NLC, nhưng các bổ sung này chưa kèm theo những bảo đảm và chưa được cụ thể hóa nên tính hiện thực trong thực tiễn chưa cao. Lời khai của NLC có thể bất lợi hoặc có thể có lợi cho bị cáo do vậy về lý thuyết người ta có phân biệt NLC của bên buộc tội và NLC của bên bào chữa nhưng về bản chất của mình NLC là chủ thể tham gia tố tụng không có sự quan tâm pháp lý về kết cục của vụ án. Lý do tham gia của họ trong vụ án hình sự không phải lợi ích cá nhân của họ mà là lợi ích chung của xã hội: làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Dù là NLC của bên buộc tội hay NLC của bên bào chữa thì họ đều có sự quan tâm duy nhất là sự thật khách quan của vụ án phải được sáng tỏ và sự tham gia của họ góp phần cho nhiệm vụ đó. Đối với NLC thì tham gia vào vụ án và trình bày lời khai trung thực tất cả những gì mà mình biết vừa là nghĩa vụ công dân vừa là nghĩa vụ tố tụng của họ. Nhưng đối với nhà nước thì NLC chính là những người cộng tác với nhà nước, với cơ quan tiến hành tố tụng. Nhà nước cần đến sự hợp tác đó. Theo lôgíc này thì NLC phải được hoan nghênh, được trải thảm đỏ khi tham gia trong TTHS hoặc chí ít thì quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ phải cân bằng với nhau. Nhưng khi phân tích các quy định của BLTTHS 2003 thì chúng ta sẽ thấy không có sự tương xứng giữa quyền và nghĩa vụ tố tụng của NLC. Nghĩa vụ của NLC nhiều và nặng nề hơn rất nhiều so với quyền và lợi ích hợp pháp mà họ được hưởng mặc dù họ có vai trò quan trọng trong vụ án.[1] NLC có thể bị dẫn giải nếu vắng mặt không có lý do chính đáng và gây khó khăn trở ngại cho việc điều tra, xét xử. Nếu từ chối hoặc trốn tránh khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 Bộ luật Hình sự (BLHS), nếu khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 BLHS. Nói chính xác thì NLC không được hưởng một lợi ích vật chất hay tinh thần nào khi tham gia vào vụ án. Các quyền mà BLTTHS thừa nhận cho NLC chỉ là quyền yêu cầu được bù đắp những thiệt thòi mất mát hoặc ngăn chặn những mất mát, tổn thất có thể xảy ra đối với họ liên quan đến sự hợp tác của họ với cơ quan tiến hành tố tụng mà thôi. BLTTHS 2003 chưa tạo ra được cơ sở pháp lý phù hợp để khuyến khích NLC tích cực thực hiện nghĩa vụ công dân của mình - hợp tác với Nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội phạm và xác lập chân lý của vụ án. Chỉ xét riêng ở khía cạnh kinh tế, sự vắng mặt của NLC tại phiên tòa buộc tòa án phải hoãn phiên tòa xét xử vụ án cũng đã làm thiệt hại đáng kể cho ngân sách nhà nước. NLC không trình diện tại phiên tòa có thể vì nhiều lý do như sợ bị đe dọa nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của mình hay người thân của mình, không muốn bị phiền phức vì những việc không liên quan đến họ, do bận rộn công việc hoặc đơn giản chỉ vì họ quên. Tại Anh trong năm 2002-2003, 2.845 vụ án ở Tòa án Hoàng gia và 13.328 vụ án ở tòa án sơ thẩm đã bị hoãn vì nhân chứng vắng mặt, chiếm 22% và 26% số vụ án bị hoãn. Cơ quan kiểm toán quốc gia Anh ước tính mỗi năm các phiên tòa bị hoãn đã gây thiệt hại 41 triệu bảng (hơn 1.000 tỷ đồng). [2] Bên cạnh thiệt hại về kinh tế thì thiệt hại về công lý mới đáng quan tâm hơn. Không có lời khai NLC, NLC phản cung, thay đổi lời khai ban đầu. làm cho hoạt động xét xử gặp khó khăn thậm chí bế tắc, kẻ phạm tội đích thực vẫn tiếp tục nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, nhiệm vụ của TTHS không hoàn thành, chân lý khách quan của vụ án không xác định được.

docx24 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2193 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ người làm chứng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ người làm chứng 1. Người làm chứng và ý nghĩa của lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự Người làm chứng (NLC) là người biết về một tình tiết nào đó có ý nghĩa cho việc điều tra, xét xử vụ án và được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập tham gia vào vụ án để trình bày lời khai của mình (Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự [BLTTHS]). NLC tham gia vào vụ án trên cơ sở quyết định triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 133 BLTTHS). Bên cạnh những thuộc tính chung như bất kỳ chứng cứ nào thì lời khai NLC có những đặc điểm riêng. Đó là tính không thể thay thế của nó. Một người không thể đồng thời vừa là NLC vừa là bị can, vừa là NLC vừa là người giám định. Lời khai NLC là loại chứng cứ mà nguồn của nó là những con người cụ thể - tính cá biệt cao. Những thông tin về vụ án được phản ánh và tái hiện lại qua lời khai của những con người cụ thể hoàn toàn khác nhau về tâm lý, về kinh nghiệm xã hội, về tính cách và nhân cách... Lời khai NLC, thủ tục tuyên thệ (cam đoan) chỉ nói sự thật của NLC trước tòa có cội nguồn xa xưa. So với nhiều chế định khác thì chế định NLC là một trong những chế định cổ xưa nhất của tố tụng hình sự (TTHS). Từ bao đời nay lời khai của NLC luôn được nhìn nhận là nguồn chứng cứ để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Trong lịch sử phát triển của khoa học TTHS, chế định NLC đã trải qua những thăng trầm nhất định và ngày nay lời khai của NLC chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống chứng cứ của TTHS nhiều nước trên thế giới. Hoạt động tố tụng càng có tính tranh tụng bao nhiêu, sự bình đẳng về quyền của các bên trong hoạt động chứng minh càng được thừa nhận đầy đủ bao nhiêu thì lời khai NLC càng được sử dụng phổ biến bấy nhiêu. Niềm tin vào lời khai NLC trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án là một phần niềm tin của con người vào sự công minh, khách quan của hoạt động xét xử. Có thể nói là trong tương lai dù khoa học kỹ thuật có phát triển đến đâu đi nữa, dù máy móc tự động có thể thay thế hoạt động của con người trong nhiều lĩnh vực khác nhau đi chăng nữa thì lời khai NLC vẫn có vai trò to lớn trong hoạt động xét xử. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật chỉ có thể mở rộng khả năng, làm thuận tiện hơn, dễ dàng hơn quá trình thu thập, lưu trữ, truyền tải và sử dụng lời khai NLC nhưng không thể thay thế lời khai NLC. Lời khai NLC vẫn là một trong những công cụ không thể thiếu được trong quá trình làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Ở Liên bang Nga khi thăm dò ý kiến của các thẩm phán về việc chứng cứ nào mà họ cho là quan trọng nhất trong hoạt động xét xử thì kết quả trả lời cho thấy lời khai NLC chiếm vị trí số một, thứ hai là kết luận giám định và thứ ba là lời khai người bị hại. Điều này có thể hiểu được bởi lẽ NLC khác với người bị hại (NBH). NBH là nạn nhân trực tiếp của hành vi tội phạm nên lời khai của họ có thể phản ánh đậm nét hơn những đánh giá, cảm xúc chủ quan của họ về các tình tiết của vụ án so với lời khai của NLC. Lời khai NBH không chỉ là nguồn chứng cứ làm sáng tỏ sự thật của vụ án mà còn là lời buộc tội, là công cụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người đó. Trình bày lời khai không chỉ là nghĩa vụ tố tụng mà đồng thời còn là quyền tố tụng của NBH. Ở góc độ này NBH được nhìn nhận là chủ thể thực hiện chức năng buộc tội. Còn NLC là chủ thể của chức năng hỗ trợ tư pháp - chức năng không cơ bản trong TTHS. Chức năng này hiện chưa được đề cập nhiều trong khoa học TTHS ở nước ta. Sự hạn chế về lý luận khoa học này chính là nguyên nhân chậm thay đổi trong tư duy lập pháp khi sửa đổi BLTTHS 2003 và thái độ đối xử không công bằng với NLC trong thực tiễn tố tụng. Khách quan mà nói thì BLTTHS 2003 có một số bổ sung về quyền của NLC so với BLTTHS 1988 như quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của mình; quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của người, cơ quan có thẩm quyển tiến hành tố tụng, quyền được thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật (Điều 55 BLTTHS 2003). Đây là tín hiệu đáng mừng về sự thay đổi tư duy lập pháp về NLC, nhưng các bổ sung này chưa kèm theo những bảo đảm và chưa được cụ thể hóa nên tính hiện thực trong thực tiễn chưa cao. Lời khai của NLC có thể bất lợi hoặc có thể có lợi cho bị cáo do vậy về lý thuyết người ta có phân biệt NLC của bên buộc tội và NLC của bên bào chữa nhưng về bản chất của mình NLC là chủ thể tham gia tố tụng không có sự quan tâm pháp lý về kết cục của vụ án. Lý do tham gia của họ trong vụ án hình sự không phải lợi ích cá nhân của họ mà là lợi ích chung của xã hội: làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Dù là NLC của bên buộc tội hay NLC của bên bào chữa thì họ đều có sự quan tâm duy nhất là sự thật khách quan của vụ án phải được sáng tỏ và sự tham gia của họ góp phần cho nhiệm vụ đó. Đối với NLC thì tham gia vào vụ án và trình bày lời khai trung thực tất cả những gì mà mình biết vừa là nghĩa vụ công dân vừa là nghĩa vụ tố tụng của họ. Nhưng đối với nhà nước thì NLC chính là những người cộng tác với nhà nước, với cơ quan tiến hành tố tụng. Nhà nước cần đến sự hợp tác đó. Theo lôgíc này thì NLC phải được hoan nghênh, được trải thảm đỏ khi tham gia trong TTHS hoặc chí ít thì quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ phải cân bằng với nhau. Nhưng khi phân tích các quy định của BLTTHS 2003 thì chúng ta sẽ thấy không có sự tương xứng giữa quyền và nghĩa vụ tố tụng của NLC. Nghĩa vụ của NLC nhiều và nặng nề hơn rất nhiều so với quyền và lợi ích hợp pháp mà họ được hưởng mặc dù họ có vai trò quan trọng trong vụ án.[1] NLC có thể bị dẫn giải nếu vắng mặt không có lý do chính đáng và gây khó khăn trở ngại cho việc điều tra, xét xử. Nếu từ chối hoặc trốn tránh khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 Bộ luật Hình sự (BLHS), nếu khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 BLHS. Nói chính xác thì NLC không được hưởng một lợi ích vật chất hay tinh thần nào khi tham gia vào vụ án. Các quyền mà BLTTHS thừa nhận cho NLC chỉ là quyền yêu cầu được bù đắp những thiệt thòi mất mát hoặc ngăn chặn những mất mát, tổn thất có thể xảy ra đối với họ liên quan đến sự hợp tác của họ với cơ quan tiến hành tố tụng mà thôi. BLTTHS 2003 chưa tạo ra được cơ sở pháp lý phù hợp để khuyến khích NLC tích cực thực hiện nghĩa vụ công dân của mình - hợp tác với Nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội phạm và xác lập chân lý của vụ án. Chỉ xét riêng ở khía cạnh kinh tế, sự vắng mặt của NLC tại phiên tòa buộc tòa án phải hoãn phiên tòa xét xử vụ án cũng đã làm thiệt hại đáng kể cho ngân sách nhà nước. NLC không trình diện tại phiên tòa có thể vì nhiều lý do như sợ bị đe dọa nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của mình hay người thân của mình, không muốn bị phiền phức vì những việc không liên quan đến họ, do bận rộn công việc hoặc đơn giản chỉ vì họ quên. Tại Anh trong năm 2002-2003, 2.845 vụ án ở Tòa án Hoàng gia và 13.328 vụ án ở tòa án sơ thẩm đã bị hoãn vì nhân chứng vắng mặt, chiếm 22% và 26% số vụ án bị hoãn. Cơ quan kiểm toán quốc gia Anh ước tính mỗi năm các phiên tòa bị hoãn đã gây thiệt hại 41 triệu bảng (hơn 1.000 tỷ đồng). [2] Bên cạnh thiệt hại về kinh tế thì thiệt hại về công lý mới đáng quan tâm hơn. Không có lời khai NLC, NLC phản cung, thay đổi lời khai ban đầu... làm cho hoạt động xét xử gặp khó khăn thậm chí bế tắc, kẻ phạm tội đích thực vẫn tiếp tục nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, nhiệm vụ của TTHS không hoàn thành, chân lý khách quan của vụ án không xác định được. Thực tiễn xét xử ở nước ta cũng cho thấy trong nhiều vụ án lớn liên quan đến băng nhóm xã hội đen như vụ án Phúc bồ, Khánh trắng (Hà Nội), Năm Cam ( TP. Hồ Chí Minh) thì gần như những NLC được tòa án triệu tập đã không có mặt. Gần đây trong một vụ án về tội cố ý gây thương tích Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã phải hoãn phiên tòa vì vắng mặt nhiều NLC quan trọng. Sau đó Tòa xuống địa phương xác minh và làm việc với từng NLC. Họ đều khẳng định đã nhiều lần khai với cơ quan điều tra về các tình tiết của vụ án, cam đoan lời khai của mình là đúng sự thật và chịu trách nhiệm về lời khai của mình nhưng kiên quyết từ chối ra tòa. Họ giải thích trong vụ án còn có một người đi theo “bảo kê” cho bị cáo nhưng cơ quan điều tra không làm rõ lai lịch và vai trò của người này trong vụ án. Vì ngại “người chưa lộ mặt ” này nên họ không dám ra tòa làm chứng. Tòa tiếp tục xử và chấp nhận cho những NLC vắng mặt. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cho rằng áp dụng dẫn giải NLC trong trường hợp này là “ làm khó” cho họ.[3] Bên cạnh lý do lo sợ cho sự an toàn của bản thân và người thân của mình thì sự vắng mặt của NLC còn có lý do khác nữa: đối xử không thiện chí, không khách quan từ phía những người tiến hành tố tụng đối với họ. Trong vụ án bị cáo Nguyễn Minh Hùng hai lần bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh kết án tử hình và cả hai lần đều bị Tòa phúc thẩm TANDTC hủy án để điều tra lại, xung quanh lời kêu oan của bị cáo còn có nỗi đau và nước mắt của những công dân lương thiện bị đối xử thậm tệ khi họ tham gia tố tụng với tư cách NLC. Báo chí đã phải dùng cụm từ là “hành hạ nhân chứng”. Bị cáo Hùng và vợ đã đưa ra trước tòa chứng cứ chứng minh sự vô tội của Hùng là sự kiện họ đã tham dự sinh nhật của chị Thuyết - người bạn của hai vợ chồng – vào thời điểm xảy ra vụ án. Chị Thuyết đã được cơ quan điều tra và Tòa án triệu tập tham gia vào vụ án với tư cách là NLC. Cơ quan điều tra đã nhiều lần mời chị đến làm việc trong hai ngày liên tục cả sáng và chiều. Tại phiên tòa NLC đã phải bật khóc khi bị tòa xét hỏi theo kiểu áp đặt “Chị là một giáo viên đào tạo cả một thế hệ mà khai báo như vậy à?” NLC khác trong vụ án này là Nguyễn Tuấn Bình cũng bất bình không kém: “Tôi gặp Hùng thì nói là gặp Hùng nhưng không hiểu sao cơ quan điều tra làm tôi mất thời gian nhiều quá. Lúc đầu thì điều tra viên nói chuyện thấy được, nhưng sau đó gắt gỏng quá. Tôi thấy vậy phản ứng lại rằng tôi là nhân chứng mà sao mấy anh đối xử như vậy? Nhưng các điều tra viên cứ ép tôi nói theo hướng phản lại những lời khai ban đầu của tôi. Rồi các anh công an mặc sắc phục vào tận cơ quan tôi gửi giấy mời... nhiều người trong cơ quan cứ nghĩ tôi là tội phạm gì hay sao mà công an cứ mời tôi hoài”. [4] 2. Bảo vệ NLC Hoạt động xét xử ở nhiều nước trong khoảng thời gian nửa cuối thế kỷ 20 đã gặp phải trở ngại to lớn là sự tác động của thế giới tội phạm đối với những nạn nhân của chúng và NLC. Các hình thức cưỡng bức NLC không hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng thông qua việc trình bày lời khai gian dối, phản cung... ngày càng tinh vi và tàn bạo hơn. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia tội phạm học thì đây chính là cách thức phổ biến nhất để vô hiệu hóa hệ thống tư pháp. Các điều tra xã hội học cho thấy NLC, NBH và người thân của họ luôn có tâm lý sợ hãi về việc phải đối mặt với bị cáo, với người thân và “bạn bè, chiến hữu” của bị cáo trong quá trình điều tra và xét xử tại phiên tòa. Những cuộc đối mặt như vậy có thể ngoài tầm kiểm soát của cơ quan tiến hành tố tụng, thí dụ như đối mặt ở bên ngoài trụ sở tòa án, ở hành lang phòng xét xử khi chờ đợi phiên tòa bắt đầu. Những năm 80, 90 thế kỷ trước ở Hoa Kỳ rất phổ biến hiện tượng “băng nhóm tội phạm đường phố” với thiên hướng bạo lực. Báo cáo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hoa kỳ J. Keeney lúc đó trước Hạ viện đã thừa nhận “sự sợ hãi của những người có thể trở thành NLC trong vụ án lớn đến mức nó đã hạn chế đáng kể khả năng của các cơ quan bảo vệ pháp luật truy cứu trách nhiệm hình sự những kẻ tội phạm bạo lực. Biết về sự sợ hãi này cũng như biết về sự bất lực của cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc bảo đảm an toàn cho NLC đã làm cho những kẻ phạm tội càng thêm tin tưởng về khả năng không bị pháp luật trừng phạt và càng lộng hành hơn đến nỗi chúng thẳng tay trả thù với cả những NLC gián tiếp”. Vấn đề bảo vệ nhân chứng được xem như là một trong những vấn đề có tính toàn cầu trong lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm. Sự bảo đảm của nhà nước về an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản cho NLC và cho người thân của họ có ảnh hưởng lớn đến tính xác thực trong lời khai của NLC, tính tích cực của họ khi tham gia trong vụ án. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật hình sự cũng như pháp luật TTHS ở mỗi quốc gia. Cùng với quá trình mở rộng những bảo đảm quyền con người trong TTHS, chế định NLC cũng có những vận động thay đổi theo hướng nhân đạo hóa mối quan hệ giữa nhà nước với NLC, mở rộng quyền của NLC và những bảo đảm tố tụng cho các quyền đó. Yêu cầu đấu tranh hiệu quả với tội phạm chính là động lực cho quá trình này. Thực tiễn quốc tế về đấu tranh chống tội phạm nhất là tội phạm có tổ chức cho thấy cuộc đấu tranh này chỉ thu được kết quả mong đợi ở những quốc gia xây dựng được nền tảng pháp lý chặt chẽ trong việc bảo vệ NLC. Một trong những bước ngoặt lớn trong phát triển của pháp luật quốc tế liên quan đến bảo vệ NLC là Tuyên ngôn về những nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử đối với nạn nhân của tội phạm và nạn nhân của sự lạm dụng quyền lực do Liên hiệp quốc ban hành ngày 29/11/1985. Liên hiệp quốc yêu cầu các quốc gia thành viên áp dụng những biện pháp cần thiết giảm thiểu tối đa những khó khăn mà NBH có thể phải đương đầu trong quá trình giải quyết vụ án, những biện pháp bảo đảm an ninh cho họ, cho NLC và người thân của họ không bị trả thù từ phía kẻ phạm tội và đồng bọn. Có thể nói văn kiện này của Liên hiệp quốc đã khẳng định vai trò to lớn và địa vị pháp lý quan trọng của nạn nhân tội phạm và NLC trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Nhiều quốc gia ở Tây Âu, Úc, Nhật bản và châu Mỹ Latinh, châu Phi trên cơ sở nội dung cơ bản của Tuyên ngôn đã cải cách đáng kể pháp luật TTHS của mình và thay đổi thái độ đối xử với nạn nhân của tội phạm, với NLC trong thực tiễn. Năm 1970 Hoa Kỳ ban hành Luật Kiểm soát đối với tội phạm có tổ chức trong đó thừa nhận cho Viện trưởng Viện Công tố Hoa Kỳ quyền được cấp kinh phí cho việc bảo vệ NLC khi người này gặp nguy hiểm về tính mạng, sức khỏe và tài sản. Tuy nhiên luật này chỉ áp dụng với NLC trong các vụ án liên quan đến tội phạm có tổ chức. Năm 1982 Quốc hội Hoa Kỳ ban hành Luật bảo vệ các nạn nhân của tội phạm và NLC. Trong phần mở đầu của luật có nhấn mạnh rằng sự vận hành bình thường của hệ thống tư pháp hình sự không thể thiếu được sự hợp tác với nạn nhân của tội phạm và với NLC. Luật Kiểm soát tội phạm có tổ chức năm 1984 của Hoa Kỳ có sửa đổi một số nội dung của luật cũ (1970) theo hướng mở rộng đáng kể phạm vi các chủ thể được nhà nước bảo vệ khi tham gia tố tụng hình sự. Pháp luật của các bang đều có những quy định bảo vệ “những đối tượng đặc biệt” - nạn nhân của tội phạm. Ở Cộng hòa Liên bang Đức vào nửa cuối thập niên 90 của thế kỷ trước nhờ áp dụng những biện pháp bảo vệ NLC mà hiệu quả đấu tranh chống các băng nhóm tội phạm có tính sắc tộc đã tăng lên rõ rệt. Ở Italia, trong năm 1995 đã áp dụng biện pháp bảo vệ với 1.113 NLC và 4.612 người thân của họ. Tham khảo pháp luật TTHS của một số nước có thể thấy những biện pháp bảo vệ NLC rất đa dạng và chúng có thể chia thành những nhóm sau đây: a) Những biện pháp chung – là những biện pháp có thể áp dụng trong quá trình tiến hành điều tra xét xử vụ án cũng như ngoài phạm vi vụ án, áp dụng với NLC cũng như với người thân thích của họ: - Bố trí người bảo vệ NLC, người thân của họ trong suốt thời gian điều tra, xét xử vụ án hay trong một khoảng thời gian nhất định. Thông thường cảnh sát tư pháp đảm nhiệm việc bảo vệ này. - Trang bị vũ khí, công cụ bảo vệ cá nhân cho NLC hay người thân của họ. Biện pháp này đòi hỏi nhà nước phải có luật quy định về việc sử dụng vũ khí vì mục đích dân sự. - Sơ tán tạm thời NLC, người thân của họ đến địa điểm an toàn. Đầu tiên biện pháp này được áp dụng chủ yếu với NBH là phụ nữ, trẻ em - nạn nhân của những hành vi tội phạm “bạo lực gia đình” sau được mở rộng với NLC. Những người này được sơ tán đến những trung tâm dành riêng cho họ trong khoảng thời gian từ 2 đến 5 tuần. Địa chỉ của những trung tâm này được giữ kín. Trong thời gian ở trung tâm này họ được giúp đỡ về tâm lý và pháp lý cho việc chuẩn bị tham gia phiên tòa. - Thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc hoặc học tập của NLC và người thân của họ. Biện pháp này rất tốn kém về tài chính và khi áp dụng nó không được gây bất kỳ thiệt hại nào về tài chính, tài sản, nhà cửa, về quyền lao động, học tập hay hưu trí cho đối tượng áp dụng đồng thời phải bảo đảm cho họ có thể sinh sống, làm việc, học tập bình thường trong điều kiện mới. “Biện pháp này chỉ hiệu quả nếu Chính phủ dám đứng ra nhận trách nhiệm về số phận của cả một gia đình”. Theo Chương trình liên bang về bảo vệ NLC của Hoa Kỳ thì Viện trưởng Viện công tố Hoa Kỳ có quyền bố trí chỗ ở mới và những biện pháp bảo đảm an ninh khác cho NLC nếu lời khai của người này tại phiên tòa có lợi cho Chính phủ liên bang và chính quyền các bang trong các vụ án về tội phạm có tổ chức và tội phạm nghiêm trọng khác và nếu có căn cứ cho rằng có khả năng xảy ra tội phạm chống lại NLC do sự tham gia của người đó trong vụ án hình sự. - Thay đổi giấy tờ tùy thân, giữ bí mật thông tin cá nhân về NLC. Những biện pháp này thường được sử dụng kèm theo biện pháp thay đổi chỗ ở, nơi làm việc, nơi học tập. Một số cơ quan nhà nước (cơ quan dịch vụ điện thoại, cơ quan cấp phát chứng minh, hộ chiếu...) bị cấm cung cấp thông tin cá nhân của NLC như thông tin về địa chỉ nơi cư trú, về số điện thoại nhà riêng, về những thông tin cá nhân khác trong một khoảng thời gian nhất định nếu không có sự đồng ý của cơ quan tiến hành tố tụng. b) Những biện pháp bảo vệ NLC trong giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra vụ án. Những biện pháp bảo vệ này chỉ do các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng trong phạm vi vụ án cụ thể đã được khởi tố, điều tra. Việc áp dụng những biện pháp này được xem xét và cân nhắc với một trong những nguyên tắc quan trong của giai đoạn điều tra là nguyên tắc không tiết lộ bí mật điều tra (BLTTHS của nước ta cũng ghi nhận nguyên tắc này ở Điều 124). Nhóm này gồm những biện pháp sau đây: - Không thể hiện những thông tin cá nhân về NLC trong biên bản lấy lời khai hay còn gọi là lời khai NLC khuyết danh. Theo quy định chung thì biên bản lời khai của NLC phải phản ánh những thông tin cá nhân về NLC như họ và tên, địa chỉ nơi cư trú, nơi làm việc, số điện thoại... Điều này luôn tạo ra khả năng cho những người thứ ba có thể tiếp xúc với NLC, tác động và ảnh hưởng đến lời khai của họ. Do vậy lời khai NLC khuyết danh - không kèm theo thông tin về cá nhân NLC là giải pháp nhằm mục đích hạn chế một cách thấp nhất khả năng tác động trái pháp luật đến NLC từ phía những người quan tâm đến kết cục của vụ án. Quy định lời khai NLC khuyết danh là một trong những biện pháp bảo vệ nhân chứng trong TTHS đã được nhiều quốc gia áp dụng. Quyết định của Tòa án nhân quyền châu Âu thừa nhận “việc sử dụng những thông tin từ lời khai NLC khuyết danh là chứng cứ của vụ án trong giai đoạn trước xét xử là phù hợp với Công ước châu Âu về bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người ngày 04/11/1950”. Quyết định của Tòa án châu Âu và Ủy ban châu Âu về quyền con người khẳng định “bên buộc tội không có nghĩa vụ thông báo cho bị can biết về tất cả các chứng cứ mà mình sẽ đề xuất trước Tòa”. Trong BLTTHS của Đan Mạch quy định một trong những biện pháp bảo vệ NLC ở giai đoạn trước xét xử là trong các đơn tố giác tội phạm, giải thích, biên bản hoạt động điều tra có thể không ghi những thông tin về cá nhân của NBH, NLC - những chủ thể được pháp luật bảo vệ. Những thông tin này sẽ được phản ánh trong các văn bản tố tụng khác. Một trong những bổ sung mới nhất của BLTTHS Pháp là quy định cho phép nhân chứng không ghi địa chỉ của mình trong biên bản lấy lời khai mà sử dụng địa chỉ của cảnh sát trưởng hay đồn cảnh sát gần nhất. Nhưng bên cạnh đó theo nguyên tắc bình đẳng của các bên thì lợi ích của bị can cũng phải được tôn trọng, do vậy BLTTHS Pháp thừa nhận quyền của bị can được đối chất với nhân chứng và được hỏi nhân chứng. Pháp luật TTHS của Thụy Sỹ cho phép cơ quan điều tra có quyền không cho người bào chữa tham dự hoạt động lấy lời khai của NLC khi có căn cứ về khả năng lạm dụng q
Luận văn liên quan