Biến đổi khí hậu - Thực trạng, thách thức, giải pháp

Báo cáo đánh giá lần thứ4 của Ban Liên Chính phủvềbiến đổi khí hậu (IPCC) công bốtháng năm 2007 nhận định rằng: Sựnóng lên của hệthống khí hậu trái đất hiện nay là chưa từng có và rất rõ ràng từ những quan trắc vềsựtăng lên của nhiệt độkhông khí và đại dương trung bình toàn cầu, sựtan chảy của băng và tuyết trên phạm vi rộng lớn và sựdâng lên của mực nước biển trung bình toàn cầu. - Xu thếtăng nhiệt độtrong chuỗi sốliệu 100 năm (1906 - 2005) là 0,74oC, lớn hơn xu thếtăng nhiệt độ100 năm thời kỳ1901 - 2000, trong đó riêng ởBắc cực nhiệt độ đã tăng 1,5oC, gấp đôi tỷlệtăng trung bình toàn cầu

pdf18 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5817 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến đổi khí hậu - Thực trạng, thách thức, giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 NGÀY SÁNG TẠO VIỆT NAM NĂM 2010 Chủ đề: Biến đổi khí hậu BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU - THỰC TRẠNG, THÁCH THỨC, GIẢI PHÁP GS.TSKH Nguyễn Đức Ngữ I. Biến đổi khí hậu toàn cầu 1.1 Thực trạng Báo cáo đánh giá lần thứ 4 của Ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) công bố tháng năm 2007 nhận định rằng: Sự nóng lên của hệ thống khí hậu trái đất hiện nay là chưa từng có và rất rõ ràng từ những quan trắc về sự tăng lên của nhiệt độ không khí và đại dương trung bình toàn cầu, sự tan chảy của băng và tuyết trên phạm vi rộng lớn và sự dâng lên của mực nước biển trung bình toàn cầu. - Xu thế tăng nhiệt độ trong chuỗi số liệu 100 năm (1906 - 2005) là 0,74oC, lớn hơn xu thế tăng nhiệt độ 100 năm thời kỳ 1901 - 2000, trong đó riêng ở Bắc cực nhiệt độ đã tăng 1,5oC, gấp đôi tỷ lệ tăng trung bình toàn cầu. - Xu thế tăng nhiệt độ trong 50 năm gần đây là 0,13oC/thập kỷ, gấp gần 2 lần xu thế tăng nhiệt độ của 100 năm qua. Nhiệt độ tăng tổng cộng từ 1850 - 1899 đến 2001 - 2005 là 0,76oC (0,58 - 0,95oC). - 11/12 năm gần đây (1995 - 2006) nằm trong số 12 năm nóng nhất trong chuỗi số liệu quan trắc bằng máy kể từ 1850. Nhiệt độ trung bình bề mặt toàn cầu từ năm 1860 đến năm 2000 - Mực nước biển trung bình toàn cầu đã tăng với tỷ lệ trung bình 1,8mm/năm trong thời kỳ 1961 - 2003 và với tỷ lệ 3,1mm/năm trong thời kỳ 10 năm 1993 - 2003. Tổng cộng, mực nước biển dâng quan trắc được là 0,31m ( 0,07)/100 năm gần đây. 2 - Diện tích băng biển trung bình năm ở Bắc cực đã thu hẹp với tỷ lệ trung bình 2,7%/1 thập kỷ. Riêng trong mùa hè là 7,4%/1 thập kỷ. Diện tích cực đại của lớp phủ băng theo mùa ở bán cầu Bắc đã giảm 7% kể từ 1990, riêng trong mùa xuân giảm tới 15%. - Các báo cáo tại Hội nghị Quốc tế về BĐKH họp ở Brucxen (Bỉ) vừa qua cho biết, trung bình mỗi năm, các núi băng trên cao nguyên Thanh Hải (Trung Quốc) bị giảm 7% khối lượng và 50 - 60m độ cao, uy hiếp nguồn nước của các sông lớn ở Trung Quốc. Trong 30 năm qua, trung bình mỗi năm diện tích lớp băng trên cao nguyên Tây Tạng bị tan chảy khoảng 131km2, chu vi vùng băng tuyết bên sườn cao nguyên mỗi năm giảm 100 - 150m, có nơi tới 350m. Tất cả đang làm cạn kiệt hồ nước Thanh Hải - 1 hồ lớn nhất Trung Quốc, đe dọa hồ sẽ bị biến mất trong vòng 200 năm tới. Nếu nhiệt độ trái đất tiếp tục tăng, khối lượng băng tuyết ở khu vực cao nguyên sẽ giảm 1/3 vào năm 2050 và chỉ còn một nửa vào năm 2090, đe dọa hệ thống đường sắt trên cao nguyên. - Ở Bắc cực, khối băng có độ dày khoảng 3km đang mỏng dần và đã mỏng đi 66cm. Ở Nam cực, băng cũng đang tan với tốc độ chậm hơn và những núi băng ở Tây Nam cực đổ sụp. Ở Greenland, những lớp băng vĩnh cửu tan chảy. Ở Alaska (Bắc Mỹ), nhiệt độ trung bình những năm gần đây đã tăng 1,50C so với trung bình nhiều năm, làm tan băng và diện tích lớp băng vĩnh cửu giảm 40%, lớp băng hàng năm thường dày 1,2m nay chỉ còn 0,3m. 1.2 Xu thế BĐKH trong thế kỷ 21 - Năm 2005, nồng độ khí CO2, loại khí nhà kính lớn nhất trong khí quyển đạt 379ppm, tăng khoảng 30% so với thời kỳ tiền công nghiệp (280ppm). Tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu đạt 48 tỷ tấn CO2 tương đương vào 2004. - Dự tính, đến cuối thế kỷ 21, hàm lượng khí CO2 trong khí quyển sẽ đạt 540 - 970ppm, nghĩa là tăng ít nhất gấp đôi so với thời kỳ tiền công nghiệp (1750). Và như vậy, nhiệt độ trung bình toàn cầu sẽ tăng 2,0 - 4,5oC. Mực nước biển trung bình dâng lên tương ứng là 0,18m đến 0,59m vào thời kỳ 2090 - 2099 so với trung bình thời kỳ 1980 - 1999. - Thực tế, lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu trong 15 năm qua, kể từ khi có Công ước Khung của Liên hiệp quốc về BĐKH, vẫn tiếp tục tăng. Nếu cứ theo chiều hướng này thì trong 15 năm tới, nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng vượt quá 20C so với thời kỳ tiền công nghiệp, nghĩa là tình trạng "BĐKH nguy hiểm" với thảm họa sinh thái là không thể tránh khỏi. - Để tránh xảy ra tình trạng "BĐKH nguy hiểm", các nước phát triển phải giảm ít nhất 80% lượng phát thải, trong đó đến năm 2020 phải giảm 30% so với mức phát thải năm 1990. 1.3 Nguyên nhân của BĐKH hiện nay 1.3.1 Nguyên nhân của BĐKH hiện nay Nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu hiện nay, tiêu biểu là sự nóng lên toàn cầu đã được khẳng định là do hoạt động của con người. Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con người đã sử dụng ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí đốt), qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hiệu ứng nhà kính, làm tăng hiệu ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất. 3 Những số liệu về hàm lượng khí CO2 trong khí quyển được xác định từ các lõi băng được khoan ở Greenland và Nam cực cho thấy, trong suốt chu kỳ băng hà và gian băng (khoảng 18 nghìn năm trước), hàm lượng khí CO2 trong khí quyển chỉ khoảng 180 - 200ppm (phần triệu), nghĩa là chỉ bằng khoảng 70% so với thời kỳ tiền công nghiệp (280ppm). Từ khoảng năm 1800, hàm lượng khí CO2 bắt đầu tăng lên, vượt con số 300ppm và đạt 379ppm vào năm 2005, nghĩa là tăng khoảng 31% so với thời kỳ tiền công nghiệp, vượt xa mức khí CO2 tự nhiên trong khoảng 650 nghìn năm qua. Hàm lượng các khí nhà kính khác như khí mêtan (CH4), ôxit nitơ (N2O) cũng tăng lần lượt từ 715ppb (phần tỷ) và 270ppb trong thời kỳ tiền công nghiệp lên 1774ppb (151%) và 319ppb (17%) vào năm 2005. Riêng các chất khí chlorofluoro cacbon (CFCs) vừa là khí nhà kính với tiềm năng làm nóng lên toàn cầu lớn gấp nhiều lần khí CO2, vừa là chất phá hủy tầng ô zôn bình lưu, chỉ mới có trong khí quyển do con người sản xuất ra kể từ khi công nghiệp làm lạnh, hóa mỹ phNm phát triển. Đánh giá khoa học của IPCC cho thấy, việc tiêu thụ năng lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng v.v... đóng góp khoảng một nửa (46%) vào sự nóng lên toàn cầu, phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18%, sản xuất nông nghiệp khoảng 9%, các ngành sản xuất hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại (3%) là các hoạt động khác (chôn rác thải v.v...). 1.3.2 Khí nhà kính và hiệu ứng nhà kính Trong thành phần của khí quyển trái đất, khí nitơ chiếm tới 78% khối lượng khí quyển, khí oxy chiếm 21%, còn lại khoảng 1% là các khí khác như acgon, đioxit cacbon, mêtan, ôxit nitơ, nêôn, hêli, hydro, ôzôn v.v... và hơi nước. Tuy chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, các khí vết này, đặc biệt là khí điôxit cacbon, mêtan, ôxit nitơ và CFCs, một loại khí chỉ mới có trong khí quyển từ khi công nghệ làm lạnh phát triển, là những khí có vai trò rất quan trọng đối với sự sống trên trái đất. Trước hết, đó là vì các chất khí nói trên có khả năng hấp thụ bức xạ hồng ngoại do mặt đất phát ra, sau đó, một phần lượng bức xạ này lại được các chất khí đó phát xạ trở lại mặt đất, qua đó hạn chế lượng bức xạ hồng ngoại của mặt đất thoát ra ngoài khoảng không vũ trụ và giữ cho mặt đất khỏi bị lạnh đi quá nhiều, nhất là về ban đêm khi không có bức xạ mặt trời chiếu tới mặt đất. Các chất khí nói trên, trừ CFCs, đã tồn tại từ lâu trong khí quyển và được gọi là các khí nhà kính tự nhiên. N ếu không có các chất khí nhà kính tự nhiên, trái đất của chúng ta sẽ lạnh hơn hiện nay khoảng 33oC, tức là nhiệt độ trung bình bề mặt trái đất sẽ khoảng -18oC. Hiệu ứng giữ cho bề mặt trái đất ấm hơn so với trường hợp không có các khí nhà kính được gọi là "hiệu ứng nhà kính". N goài ra, khí ôzôn tập trung thành 1 lớp mỏng trên tầng bình lưu của khí quyển có tác dụng hấp thụ các bức xạ tử ngoại từ mặt trời chiếu tới trái đất và qua đó bảo vệ sự sống trên trái đất. Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp về trước, ít nhất khoảng 10 nghìn năm, nồng độ các khí nhà kính rất ít thay đổi, trong đó khí CO2 chưa bao giờ vượt quá 300ppm. Chỉ riêng lượng phát thải khí CO2 do sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã tăng hàng năm trung bình từ 6,4 tỷ tấn cacbon (~ 23,5 tỷ tấn CO2) trong những năm 1990 lên đến 7,2 tỷ tấn cacbon (~ 45,9 tỷ tấn CO2) mỗi năm trong thời kỳ 2000 - 2005. 4 N hư vậy, sự tăng lên của hàm lượng khí nhà kính từ thời kỳ tiền công nghiệp đến nay làm tăng hiệu ứng nhà kính trong khí quyển dẫn đến sự tăng lên của nhiệt độ trung bình toàn cầu và kéo theo những hậu quả khác được khẳng định là do các hoạt động của con người. Nồng độ khí cacbonic trong khí quyển tăng lên từ năm 1870 đến năm 2000 II. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam 2.1 Thực trạng - Trong khoảng 70 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng lên, trung bình 0,1oC/1 thập kỷ (0,07 - 0,15oC). N hiệt độ trung bình 4 thập kỷ gần đây (1961 - 2000) cao hơn 3 thập kỷ trước đó (1931 - 1960). N hiệt độ trung bình năm của thập kỷ 1991 - 2000 ở Hà N ội cao hơn trung bình nhiều năm (1961 - 1990) 0,7oC. N hiệt độ trung bình năm của thập kỷ 1991 - 2000 ở cả 3 nơi là Hà N ội, Đà N ẵng và TP. Hồ Chí Minh, đều cao hơn trung bình năm của thập kỷ 1931 - 1940 với trị số lần lượt là 0,8oC, 0,4oC và 0,7oC. N ăm 2007, nhiệt độ trung bình năm ở cả 3 nơi đều cao hơn trung bình của các của các thập kỷ đã nêu lần lượt là 0,8 - 1,3oC và 0,4 - 0,5oC. Bảng 1: So sánh nhiệt độ trung bình năm (oC) các thập kỷ 1991 - 2000 và 1931 - 1940 Thập kỷ Hà Nội Đà Nẵng TP. Hồ Chí Minh 1931 - 1940 23,3 25,4 26,9 1991 - 2000 24,1 25,8 27,6 Chênh lệch 0,8 0,4 0,7 2007* 0,8 0,4 0,7 * Số liệu 2007 theo công điện hàng tháng 5 N hiệt độ trung bình tháng 1 và tháng 7 ở 3 nơi nói trên cũng có xu thế tương tự, tăng 0,5 - 1,1oC đối với tháng 1 và 0,5 - 0,8oC đối với tháng 7. Bảng 2: So sánh nhiệt độ trung bình tháng 1 và tháng 7 (oC) các thập kỷ 1991 - 2000 và 1931 - 1940. Thập kỷ Hà Nội Đà Nẵng TP. Hồ Chí Minh I VII I VII I VII 1931 - 1940 15,9 28,6 21,1 28,7 25,8 26,8 1991 - 2000 17,0 29,4 21,7 29,2 26,3 27,4 Chênh lệch 1,1 0,8 0,6 0,5 0,6 0,6 2007* 16,9 30,4 21,3 29,4 27,3 27,7 - Lượng mưa biến đổi không nhất quán, có nơi tăng, nơi giảm, trong đó ở Hà N ội và TP. Hồ Chí Minh có xu thế giảm trong 2 thập kỷ gần đây, trong khi ở Đà N ẵng lại tăng. Ở các tỉnh N am Trung Bộ, lượng mưa có xu thế giảm, tình trạng khô hạn có phần tăng lên. Lượng mưa lớn nhất trong 24 giờ cũng có phần tăng lên trong những thập kỷ gần đây - Hoạt động của bão trên Biển Đông có xu thế giảm trong 4 thập kỷ qua (1961 - 2000). Bão ảnh hưởng đến Việt N am giảm rõ rệt trong thập kỷ 1991 - 2000. N ăm 2007, có 4 cơn bão đổ bộ và ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta ít hơn trung bình nhiều năm 3 cơn. Bảng 3: Số cơn bão hoạt động trên Biển Đông và số bão ảnh hưởng đến Việt N am trong 4 thập kỷ qua (1961 - 2000) Thập kỷ Bão Biển Đông Bảo ảnh hưởng đến Việt Nam 1961 - 1970 114 74 1971 - 1980 113 76 1981 - 1990 109 77 1991 - 2000 103 68 Tuy nhiên, số cơn bão mạnh có chiều hướng gia tăng. Mùa hoạt động của bão kéo dài hơn về cuối năm và số bão ảnh hưởng đến các tỉnh phía N am nhiều hơn. - Tần số hoạt động của không khí lạnh ở Bắc Bộ có xu thế giảm rõ rệt trong 3 thập kỷ qua, từ 288 đợt trong thập kỷ 1971 -1980, 287 đợt trong thập kỷ 1981 - 1990, xuống còn 249 đợt trong thập kỷ 1991 - 2000. - Số ngày mưa phùn giảm đi rõ rệt. Thí dụ: ở Hà nội, trung bình mỗi năm có 29,7 ngày mưa phùn trong thập kỷ 1961 - 1970, giảm xuống còn 14,5 ngày/năm trong thập kỷ 1991 - 2000. - Mực nước biển trung bình quan trắc được trong khoảng 50 năm qua ở các trạm Cửa Ông và Hòn Dấu cho thấy, trung bình mỗi thập kỷ tăng lên 2,5 - 3,0cm. - Hiện tượng EN SO (El N ino và La N ina) ảnh hưởng đến nước ta mạnh mẽ hơn trong thập kỷ 1991 - 2000 so với trước đó. 6 Hình 1: Biến trình nhiều năm và xu thế nhiệt độ không khí trung bình năm tại một số trạm khí tượng Hình 2: Biến trình nhiều năm và xu thế nhiệt độ không khí trung bình tháng I tại một số trạm khí tượng biÕn tr×nh nhiÒu n¨mvμ xu thÕ NhiÖt ®é kh«ng khÝ trung b×nh n¨m tr¹m hμ néi y = 0.0056x + 23.388 22.5 23.5 24.5 25.5 26.5 năm T( 0C ) biÕn tr×nh nhiÒu n¨m vμ xu thÕ NhiÖt ®é kh«ng khÝ trung b×nh n¨m tr¹m ®μ n½ng y = 0.0038x + 25.565 24.5 25.0 25.5 26.0 26.5 27.0 năm T( 0C ) biÕn tr×nh nhiÒu n¨m vμ xu thÕ NhiÖt ®é kh«ng khÝ trung b×nh n¨m tr¹m t©n s¬n nhÊt y = 0.0104x + 26.789 25.5 26.0 26.5 27.0 27.5 28.0 28.5 29.0 năm T( 0C ) biÕn tr×nh nhiÒu n¨mvμ xu thÕ NhiÖt ®é kh«ng khÝ trung b×nh th¸ng I tr¹m hμ néi y = 0.0022x + 16.525 12.5 13.5 14.5 15.5 16.5 17.5 18.5 19.5 20.5 21.5 năm T( 0C ) biÕn tr×nh nhiÒu n¨m vμ xu thÕ NhiÖt ®é kh«ng khÝ trung b×nh th¸ng i tr¹m ®μ n½ng y = 0.0068x + 21.162 18.0 19.0 20.0 21.0 22.0 23.0 24.0 25.0 năm T( 0C ) biÕn tr×nh nhiÒu n¨m vμ xu thÕ NhiÖt ®é kh«ng khÝ trung b×nh th¸ng i tr¹m t©n s¬n nhÊt y = 0.0095x + 25.541 23.5 24.5 25.5 26.5 27.5 28.5 năm T( 0C ) 7 Hình 3: Biến trình nhiều năm và xu thế nhiệt độ không khí trung bình tháng VII tại một số trạm khí tượng Hình 4: Biến trình nhiều năm và xu thế lượng mưa năm tại một số trạm khí tượng biÕn tr×nh nhiÒu n¨mvμ xu thÕ NhiÖt ®é kh«ng khÝ trung b×nh th¸ng VII tr¹m hμ néi y = 0.0091x + 28.62 27.0 28.0 29.0 30.0 31.0 năm T( 0C ) biÕn tr×nh nhiÒu n¨m vμ xu thÕ NhiÖt ®é kh«ng khÝ trung b×nh th¸ng VII tr¹m ®μ n½ng y = 0.0054x + 28.919 27.0 28.0 29.0 30.0 31.0 năm T( 0C ) biÕn tr×nh nhiÒu n¨m vμ xu thÕ NhiÖt ®é kh«ng khÝ trung b×nh th¸ng Vii tr¹m t©n s¬n nhÊt y = 0.0136x + 26.675 25.0 26.0 27.0 28.0 29.0 năm T( 0C ) biÕn tr×nh nhiÒu n¨m vμ xu thÕ l−îng m−a n¨m tr¹m hμ néi y = 0.3391x + 1644.8 500 1000 1500 2000 2500 3000 năm R (m m ) biÕn tr×nh nhiÒu n¨m vμ xu thÕ l−îng m−a n¨m tr¹m ®μ n½ng y = 1.0261x + 1930.7 500 1000 1500 2000 2500 3000 3500 4000 năm R (m m ) biÕn tr×nh nhiÒu n¨m vμ xu thÕ l−îng m−a n¨m tr¹m t©n s¬n nhÊt y = 2.1373x + 1831.8 500 1000 1500 2000 2500 3000 năm R (m m ) 8 2.2 Xu thế BĐKH trong thế kỷ 21 Trên cơ sở hướng dẫn của Ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu, nhất là về phát thải khí nhà kính toàn cầu, kế thừa các kết quả nghiên cứu trong nước từ năm 1994 đến nay, xem xét tình hình thực tế về BĐKH toàn cầu diễn ra trong những năm gần đây,hai kịch bản phát thải khí nhà kính toàn cầu là kịch bản trung bình của nhóm các kịch bản phát thải cao (kịch bản A2) và kịch bản trung bình của nhóm các kịch bản phát thải vừa(kịch bản B2) đã được lựa chọn để xây dựng cac kịch bản về biến đổi nhiệt độ, lượng mưa; kịch bản A1FI và kịch bản B2 được sử dụng để xây dựng kịch bản về mực nước biển dâng cho Việt N am trong thế kỷ 21. Kết quả cho thấy: Về nhiệt độ, theo kịch bản cao (A2), nhiệt độ trung bình năm vào năm 2100 có thể tăng 3,1 - 3,6oC ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, 2,1-2,6oC ở N am Trung Bộ, Tây N guyên, N am Bộ so với trung bình thời kỳ 1980-1999. Theo kịch bản trung bình (B2), các con số tương ứng lần lượt là 2,4 - 2,8 và 1,6-2,0oC. Về lượng mưa, theo kịch bản cao (A2), vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa năm có thể tăng khoảng 9 - 10% so với trung bình thời kỳ 1980 - 1999 ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, 4- 5% ở N am Trung Bộ và 2% ở Tây N guyên và N am Bộ. Theo kịch bản trung bình, các con số tương ứng là 7-8% và 2-3% Về mực nước biển, theo kịch bản cao (A1FI), mực nước biển trung bình có thể dâng lên 30 - 33cm vào năm 2050 và 74 -100cm vào năm 2100 so với trung bình thời kỳ 1980-1999. 2.3 Tác động của BĐKH ở Việt Nam 2.3.1 Tác động của BĐKH đến môi trường tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên 2.3.1.1 Thiên tai và các hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng - N óng lên toàn cầu gây ra những biến đổi hoàn lưu khí quyển và đại dương, đặc biệt là hoàn lưu gió mùa và hoàn lưu nhiệt - muối dẫn đến những biến động về nhiệt độ, lượng mưa và các hiện tượng thời tiết. - Tăng lượng bốc hơi trên lục địa và đại dương dẫn đến tăng hàm lượng Nm trong khí quyển và tăng hội tụ Nm vận tải từ đại dương vào lục địa làm tăng khả năng mưa lớn trên lục địa. - Tăng tính biến động, tính dị thường và cực đoan của các yếu tố khí hậu và hiện tượng thời tiết như nắng, nóng, rét, bão, lũ, mưa hớn, hạn hán, tố, lốc, v.v…, đặc biệt là trong những trường hợp liên quan đến hoạt động của El N ino, La N ina. 2.3.1.2 Tác động đối với thủy văn và tài nguyên nước - N hững thay đổi về hoàn lưu gió mùa, bao gồm cả những nhiễu động khí quyển, hàm lượng Nm trong khí quyển và bốc hơi sẽ làm thay đổi về lượng mưa và phân bố mưa theo không gian và thời gian, dẫn đến những thay đổi trong chế độ thủy văn và tài nguyên nước cũng như những thiên tai liên quan đến nước, ảnh hưởng đến hoạt động của hồ chứa. Theo IPCC 2007, lượng dòng chảy trung bình năm có khả năng tăng 10 - 40% ở vùng vĩ độ cao 9 và một số vùng Nm ở nhiệt đới, nhưng giảm 10 - 30% ở một số vùng khô thuộc vĩ độ trung bình và nhiệt đới. Vì thế, các vùng bị ảnh hưởng của hạn sẽ mở rộng hơn, các sự kiện mưa lớn sẽ tăng lên về tần suất và nguy cơ lũ, lụt gia tăng. - Các mô phỏng mưa cho thời kỳ 2050 - 2070 theo các kịch bản BĐKH ở Việt N am cho thấy, ở hầu hết các vùng, lượng mưa mùa mưa đều tăng với mức độ khác nhau: 0 - 5% ở Tây Bắc, Đông Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, Tây N guyên, N am Bộ; 0 - 10% ở Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ và phía Bắc N am Trung Bộ. Lượng mưa mùa khô ở Tây Bắc, Đông Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, Tây N guyên và N am Bộ có thể tăng hoặc giảm -5 đến +5%, trong khi ở Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ và phía Bắc N am Trung Bộ tăng 0 - 5%. N hư vậy, có khả năng dòng chảy lũ tăng lên ở hầu hết các vùng, nhất là Bắc và Trung Trung Bộ, trong khi dòng chảy kiệt giảm đi ở các vùng có lượng mưa mùa khô giảm, đáng chú ý nhất là Tây N guyên, N am Bộ và cực N am Trung Bộ, những nơi hàng năm vẫn chịu hạn hán nặng nề vào mùa khô. Kết quả mô phỏng cho thấy, vào năm 2070, dòng chảy năm của sông Hồng biến đổi từ +5,8% đến -19,0%; đối với sông Mê Kông là +4,2% đến -14,5% so với hiện nay. Dòng chảy kiệt biến đổi từ -10,3% đến -14,5% đối với sông Hồng và từ -2,0% đến - 24,0% đối với sông Mê Kông. 2.3.1.3 Tác động đối với các hệ sinh thái tự nhiên - Tính cơ động (đàn hồi) của nhiều hệ sinh thái sẽ vượt qua giới hạn trong thế kỷ này do sự kết hợp những điều kiện chưa từng có của BĐKH liên quan đến các biến động như hạn hán, a xít hoán nước biển v.v… và những hậu quả của biến đổi khí hậu toàn cầu khác như thay đổi sử dụng đất, ô nhiễm môi trường, khai thác quá mức tài nguyên. - Hấp thụ cacbon tinh của các hệ sinh thái lục địa dự kiến sẽ tăng lên và đạt đỉnh vào giữa thế kỷ này, sau đó giảm dần, thậm chí ngược lại - thải cacbon và góp phần làm tăng BĐKH. - Dự tính, khoảng 20 - 30% các loài thực vật và động vật được đánh giá là ở trong tình trạng nguy cơ bị tiêu diệt tăng lên, nếu nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng vượt quá 1,5 - 2,5oC. - N ếu nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng vượt quá 1,5 - 2,5oC, kết hợp với hàm lượng khí CO2 trong khí quyển tăng, sẽ dẫn đến những thay đổi cơ bản trong cấu trúc và chức năng của các hệ sinh thái, sự tương tác sinh thái của các loài và sự phân bố địa lý của chúng với những hậu quả tiêu cực là chính đối với tính đa dạng sinh học, các sản phNm và dịch vụ của các hệ sinh thái, vấn đề cung cấp nước và thực phNm. - N hiệt độ tăng làm dịch chuyển ranh giới khí hậu dẫn đến dịch chuyển ranh giới nhiệt của các hệ sinh thái lục địa về phía Bắc và lên cao hơn. Kết quả là các thực vật nhiệt đới có thể phát triển xa hơn về phía Bắc và lên các độ cao cao hơn, trong khi các thực vật ôn đới và á nhiệt đới bị thu hẹp lại hoặc bị mất đi nếu không thích nghi kịp (thí dụ: vùng núi cao Hoàng Liên Sơn). - Hệ sinh thái biển và ven biển bị thay đổi do mực nước biển dâng, nhiệt độ và độ mặn thay đổi cùng với những thay đổi về dòng chảy, sóng, biên độ thủy triều, xâm nhập 10 mặn và xói lở bờ biển. Các rạn san hô rất dễ bị tổn thương do nhiệt độ nước biển tăng lên vì khả năng thích ứng kém. N hiệt độ mặt nước biển tăng 1 - 3oC có thể làm cho san hô bị biến màu thành trắng và chết hàng loạt. Vùng đất ướt ven biển bao gồm cả đầm lầy và rừng ngập mặn sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực do mực nước biển dân
Luận văn liên quan