Hiện nay nền kinh tế nước ta đang vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong bối cảnh đó nhiều loại hình tổ chức kinh doanh, thuộc các thành phần kinh tế ra đời và cùng hoạt động trên thị trường, chính vì thế mà cạnh tranh trong kinh doanh ngày càng quyết liệt.
Sau khi Việt Nam chính thức trở thành một thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế nước ta đã có khá nhiều sự thay đổi lớn. Đó chính là sự cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế, không phải chỉ là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước mà còn là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài. Nhận thấy rõ được điều này, nhà nước ta cũng đang dần hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo ra sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp hoạt động. Điều này cũng tạo động lực cho các doanh nghiệp hoạt động một cách có hiệu quả. Để tồn tại và phát triển được trên thị trường Việt Nam hiện nay thì các doanh nghiệp phải luôn luôn thay đổi phù hợp với xu thế của thị trường, nắm bắt sự biến đổi của thị trường. Xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế đã thúc đẩy sản xuất tăng trưởng mạnh mẽ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển. Xu hướng này đã lôi kéo tất cả các doanh nghiệp dù muốn hay không cũng phải từng bước hội nhập vào quỹ đạo của nền kinh tế. Trong quá trình hội nhập các doanh nghiệp phải tối đa hoá lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu của bất kỳ doanh nghiệp nào khi thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó đưa ra những quyết định kinh tế tối ưu nhất và đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.Như vậy, tối đa hoá lợi nhuận luôn là vấn đề mang tính chiến lược và có ý nghĩa quan trọng đối với các doang nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
Để đánh giá hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp thì lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu quan trọng mà chúng ta có thể sử dụng. Lợi nhuận là điều kiện để quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường. Tạo ra lợi nhuận sẽ có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp như: khả năng thanh toán, khả năng quay vòng vốn Không những thế, lợi nhuận còn là động lực để các doanh nghiệp sử dụng tối đa các nguồn lực vốn có của mình.
Vì vậy, em chọn đề tài: Biện pháp tăng lợi nhuận tại công ty Trách nhiệm hũu hạn Sắc Màu
Chuyên đề bao gồm 3 phần chính:
Chương I : Lý luận chung về lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
Chương II : Thực trạng lợi nhuận tại công ty Trách nhiệm hữu hạn sắc Màu
Chương III: Một số biện pháp nhằm tăng lợi nhuận của công ty trách nhiệm hữu hạn Sắc Màu
45 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2027 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Biện pháp tăng lợi nhuận tại công ty Trách nhiệm hũu hạn Sắc Màu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong bối cảnh đó nhiều loại hình tổ chức kinh doanh, thuộc các thành phần kinh tế ra đời và cùng hoạt động trên thị trường, chính vì thế mà cạnh tranh trong kinh doanh ngày càng quyết liệt.
Sau khi Việt Nam chính thức trở thành một thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế nước ta đã có khá nhiều sự thay đổi lớn. Đó chính là sự cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế, không phải chỉ là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước mà còn là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài. Nhận thấy rõ được điều này, nhà nước ta cũng đang dần hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo ra sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp hoạt động. Điều này cũng tạo động lực cho các doanh nghiệp hoạt động một cách có hiệu quả. Để tồn tại và phát triển được trên thị trường Việt Nam hiện nay thì các doanh nghiệp phải luôn luôn thay đổi phù hợp với xu thế của thị trường, nắm bắt sự biến đổi của thị trường. Xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế đã thúc đẩy sản xuất tăng trưởng mạnh mẽ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển. Xu hướng này đã lôi kéo tất cả các doanh nghiệp dù muốn hay không cũng phải từng bước hội nhập vào quỹ đạo của nền kinh tế. Trong quá trình hội nhập các doanh nghiệp phải tối đa hoá lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu của bất kỳ doanh nghiệp nào khi thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó đưa ra những quyết định kinh tế tối ưu nhất và đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.Như vậy, tối đa hoá lợi nhuận luôn là vấn đề mang tính chiến lược và có ý nghĩa quan trọng đối với các doang nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
Để đánh giá hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp thì lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu quan trọng mà chúng ta có thể sử dụng. Lợi nhuận là điều kiện để quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường. Tạo ra lợi nhuận sẽ có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp như: khả năng thanh toán, khả năng quay vòng vốn…Không những thế, lợi nhuận còn là động lực để các doanh nghiệp sử dụng tối đa các nguồn lực vốn có của mình.
Vì vậy, em chọn đề tài: Biện pháp tăng lợi nhuận tại công ty Trách nhiệm hũu hạn Sắc Màu
Chuyên đề bao gồm 3 phần chính:
Chương I : Lý luận chung về lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
Chương II : Thực trạng lợi nhuận tại công ty Trách nhiệm hữu hạn sắc Màu
Chương III: Một số biện pháp nhằm tăng lợi nhuận của công ty trách nhiệm hữu hạn Sắc Màu
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP
. Khái niệm, vai trò lợi nhuận của lợi nhuận đối với doanh nghiệp:
1.1.1. Khái niệm: Từ trước đến nay đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về lợi nhuận, tùy vào từng góc độ mà khái niệm lợi nhuận được các nhà kinh tế học có quan điểm khác nhau về lợi nhuận.
Các nhà kinh tế học trước Mác cho rằng lợi nhuận là “ cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản xuất “
Thế nhưng dưới góc độ khác, Các Mác cho rằng " Giá trị thặng dư hay cái phần trội lên nằm trong toàn bộ giá trị của hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi đó là lợi nhuận ".
Đến thời kỳ hiện đại, các nhà kinh tế học như P.A.Samuelson và W.D.Norhaus lại cho rằng : “ Lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra bằng số tiền thu về trừ đi tổng số tiền chi ra ” hay cụ thể hơn ''lợi nhuận được định nghĩa là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của doanh nghiệp và tổng số tiền để có được thu nhập đó”. Đây là khái niệm phổ biến nhất hiện nay và được chấp nhận.
Quan điểm của các nhà kinh tế học đều rút ra một nhận xét đó là : lợi nhuận là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí bỏ ra. Đây chính là kết quả của hoạt đông sản xuất kinh doanh.
Để nghiên cứu hiệu quả các hoạt động kinh tế trong các doanh nghiệp, người ta thường phân chia thành ba loại lợi nhuận, đó là lợi nhuận kinh tế, lợi nhuận kế toán và lợi nhuận bình quân.
- Lợi nhuận kinh tế: Là mức chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí kinh tế. Lợi nhuận kinh tế thường được các nhà kinh tế quan tâm nhất để xem xét hiệu quả trên tầm vĩ mô của cả nền kinh tế và việc tính toán hiệu quả kinh tế khá phức tạp vì nó phải tính đến cả những chi phí mà thực tế doanh nghiệp không phải chi ra. Vì thế chi phí kinh tế thường cao hơn chi phí kế toán.
- Lợi nhuận kế toán: Là chênh lệch giữa tổng doanh thu thực tế và tổng chi phí thực tế mà doanh nghiệp phải chi ra để có được doanh thu đó. Trong thực tế các doanh nghiệp chỉ tính các chi phí thực tế chi ra-nghĩa là những chi phí mà họ bỏ ra bằng tiền cho những hoạt động của doanh nghiệp. Ở đây chúng ta thống nhất là doanh thu của doanh nghiệp là tổng số tiền mà doanh nghiệp thu được sau một quá trình kinh doanh thông qua việc tiêu thụ được hàng hoá và dịch vụ, thời điểm phát sinh doanh thu là thời điểm mà khách hàng chấp nhận thanh toán. Còn chi phí của doanh nghiệp là những hao phí bằng tiền mà doanh nghiệp phải chịu để có được doanh thu trong thời kỳ đó. Lợi nhuận kế toán là đối tượng quan tâm của các nhà kế toán.
- Lợi nhuận bình quân: Được hình thành do tác động của quy luật cung cầu vốn trên thị trường. Nó được biểu hiện bằng mức lãi suất của nền kinh tế. Lợi nhuận bình quân là mức lợi nhuận tối thiểu mà doanh nghiệp phải đạt được trong lĩnh vực hoạt động cụ thể. Bởi lẽ nếu doanh nghiệp không mang vốn đầu tư mà đem gửi ngân hàng thì họ cũng thu được một khoản tiền bằng tiền lãi suất. Do đó lợi nhuận bình quân là đối tượng để các nhà đầu tư lựa chọn xem xét lĩnh vực đầu tư sao cho thu được lợi nhuận siêu nghạch cao hơn lợi nhuận bình quân.
Đứng trên quan điểm doanh nghiệp thì lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường.
- Lợi nhuận trước thuế từ các hoạt động là tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp, lợi nhuận trước thuế là cơ sở để tính thuế thu nhập doanh nghiệp, lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và chi phí hoạt động kinh doanh, lợi nhuận trước thuế từ hoạt động tài chính là chênh lệch giữa doanh thu hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính
- Lợi nhuận sau thuế là chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp :
Thuế thu nhập doanh nghiệp
=
Lợi nhuận trước thuế
X
Thuế suất thuế TNDN
Lợi nhuận sau thuế
=
Lợi nhuận trước thuế
-
Thuế thu nhập DN
1.1.2.Vai trò của lợi nhuận
Trước đây, nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế tập trung bao cấp. Do đó, vai trò của lợi nhuận dường như không được thể hiện rõ. Các doanh nghiệp sản xuất theo kế hoạch mà nhà nước giao. Do vây, kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh không ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Việc doanh nghiệp thua lỗ hay lãi đều do nhà nước chịu. Điều này không kích thích được nền kinh tế phát triển, không làm các doanh nghiệp đổi mới kỹ thuật.
Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì vai trò của lợi nhuận lại rất quan trọng. Trong nền kinh tế thi trường, các doanh nghiệp chủ động trong việc sản xuất kinh doanh. Kế hoạch sản xuất là do các doanh nghiệp để ra và tự quyết định. Nhà nước không tham gia vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp mà chỉ tác động đến doanh nghiệp bằng các chính sách kinh tế. Bên cạnh đó, nhà nước cũng tạo ra một hành lang pháp lý để tạo cơ sở cho các doanh nghiệp hoạt động. Chính vì lẽ đó, lợi nhuận chính là điều kiện để các doanh nghiệp tồn tại và cũng là mục tiêu mà các doanh nghiệp hướng tới. Do đó ta có thể thấy được vai trò vô cùng quan trọng của lợi nhuận trong doanh nghiệp cũng như trong nền kinh tế.
- Đối với doanh nghiệp, lợi nhuận chính là mục tiêu của kinh doanh, là thước đo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên vật liệu và các nguồn lực khác, nâng cao năng suất lao động, hiệu quả và chất lượng của quá trình sản xuất kinh doanh...Nếu các doanh nghiệp không thể tạo ra lợi nhuận cho mình thì cũng không thể sẵn sàng cung cấp cho nhu cầu xã hội những hàng hoá và dịch vụ mong muốn. Do đó động cơ lợi nhuận là một bộ phận hợp thành quyết định tạo ra sự hoạt động thắng lợi của thị trường sản phẩm hàng hoá và dịch vụ.
Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng, là điều kiện để thực hiện các mục tiêu trong hệ thống các mục tiêu của doanh nghiệp:
Mục tiêu kinh tế: Đạt được lợi nhuận cao, mục tiêu phát triển doanh nghiệp, mục tiêu sản xuất khối lượng hàng hoá và dịch vụ tối đa để đáp ứng thoả mãn nhu cầu của xã hội.
Mục tiêu xã hội: Bảo vệ và thoả mãn các nhu cầu, quyền lợi của các thành viên trong doanh nghiệp như thu nhập, cơ hội thăng tiến...bảo vệ quyền lợi của bạn hàng, của người tiêu dùng, công tác quốc phòng và bảo vệ môi trường.
Mục tiêu chính trị: Xây dựng đội ngũ cán bộ công nhân viên tiên tiến, nhận thức chính trị đúng đắn.
Trong hệ thống mục tiêu trên thì lợi nhuận là điều kiện để bảo đảm thực hiện các mục tiêu khác. Muốn phát triển doanh nghiệp cả về lượng và chất thì đòi hỏi doanh nghiệp đó phải làm ăn có lãi hay phải có lợi nhuận.
Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh cả mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh. Kinh doanh tốt sẽ có lợi nhuận cao và đây là điều kiện bảo đảm quá trình đầu tư, tái sản xuất mở rộng, tiếp tục quá trình kinh doanh có hiệu quả hơn. Ngược lại, làm ăn kém hiệu quả sẽ tất yếu dẫn đến thua lỗ, phá sản. Vì vậy có thể nói rằng lợi nhuận tối đa là mục tiêu đầu tiên trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp cạnh tranh trong cơ chế thị trường, là đòn bẩy quan trọng về kinh tế kích thích người lao động đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động, nhằm nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động, thúc đẩy mọi người quan tâm đến hoạt động kinh doanh.
- Đối với nền kinh tế xã hội: Lợi nhuận của doanh nghiệp không chỉ là một bộ phận thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp mà đồng thời là nguồn thu nhập quan trọng cho ngân sách Nhà nước và là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân cho mỗi nước. Đến đây ta thấy được vai trò của lợi nhuận rất quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với cả nền kinh tế, cả xã hội. Và xã hội chỉ có thể phát triển phồn thịnh được khi mỗi doanh nghiệp phát triển phồn thịnh. Nhờ có lợi nhuận mà các doanh nghiệp không những thực hiện được nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế theo quy định của pháp luật mà còn có điều kiện để thực hiện các hoạt động từ thiện nhân đạo...
Bên cạnh đó lợi nhuận còn là nguồn để tái sản xuất xã hội bởi lẽ khi có lợ nhuận thì các doanh nghiệp sẽ phân phối một phần vào các quỹ, và một phần dùng để tái sản xuất, làm tăng quy mô sản xuât. Như vậy, lợi nhuận có vai trò rất quan trọng và phấn đấu tăng lợi nhuận là đòi hỏi tất yếu của quá trình kinh doanh, là mục tiêu của các doanh nghiệp.
. Nguồn hình thành lợi nhuận của doanh nghiệp
Để một doanh nghiệp có được lợi nhuận khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp đó phải có những phương pháp trong sản xuất để làm giảm chi phí một cách tối đa, đồng thời tăng doanh thu. Lợi nhuận cũng là mục tiêu của các doanh nghiệp.
1.2.1. Nguồn hình thành lợi nhuận của doanh nghiệp từ hoạt động kinh doanh
Trong doanh nghiệp, kết quả hoạt động kinh doanh là kết quả bán hàng hoá, được xác định.
Kết quả bán hàng
=
Doanh thu bán hàng thuần
-
Giá vốn hàng bán
-
Chi phí bán hàng
-
Chi phí quản lý doanh nghiệp
Doanh thu bán hàng thuần
=
Tổng doanh thu
-
Các khoản giảm trừ
* Tổng doanh thu : là toàn bộ tiền bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường, tiền thu từ phần trợ giá của Nhà nước khi thực hiện việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo yêu cầu của Nhà nước. Các hàng hoá, dịch vụ đem tặng, cho, biếu hoặc tiêu dùng trong nội bộ doanh nghiệp cũng phải được hạch toán để xác định doanh thu. Thời điểm để xác định doanh thu là khi người mua đã chấp nhận thanh toán không phụ thuộc đã thu tiền hàng hay chưa.
* Các khoản giảm trừ bao gồm : Giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu (nếu có).
+ Giảm giá hàng bán : là các khoản giảm giá hoặc hối khấu sau khi bán hàng vì những lý do như : hàng kém phẩm chất, sai quy cách theo hợp đồng, ưu đãi cho khách hàng mua với số lượng lớn…
+ Giá trị hàng bán bị trả lại : là giá trị của hàng hoá và dịch vụ đã tiêu thụ bị khách hàng trả lại do vi phạm cam kết, vi phạm hợp đồng kinh tế, hàng kém phẩm chất…
* Phần còn lại của doanh thu bán hàng thuần sau khi đã trừ đi giá vốn hàng bán gọi là lợi nhuận gộp còn phải bù đắp những chi phí chưa được tính vào trị giá vốn hàng bán đó là : Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp, phần còn lại là kết quả bán hàng hay lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Chi phí bán hàng : là toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá biểu hiện bằng tiền phát sinh trong quá trình tổ chức bán hàng như : Chi phí vận chuyển, chi phí quảng cáo, chi phí trả lương cho nhân viên bán hàng… Chi phí này phát sinh thường xuyên trong các doanh nghiệp thương mại.
* Chi phí quản lý doanh nghiệp : là toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá được biểu hiện bằng tiền phát sinh trong quá trình quản lý doanh nghiệp và các chi phí khác liên quan đến toàn bộ doanh nghiệp.
1.2.2. Nguồn hình thành lợi nhuận từ hoạt động tài chính
Là kết quả thu được từ các hoạt động như: đầu tư chứng khoán góp vốn liên doanh, kinh doanh bất động sản, cho vay vốn… Được xác định như sau
Kết quả HĐTC
=
Thu nhập HĐTC
-
Chi phí HĐTC
-
Thuế (nếu có)
* Thu nhập hoạt động tài chính là số tiền thu được từ :
- Lãi do mua bán chứng khoán
- Lợi tức cổ phần, lãi trái phiếu, tín phiếu
- Thu nhập do bán bất động sản
- Lãi do bán ngoại tệ
- …
* Chi phí hoạt động tài chính là các chi phí và các khoản lỗ liên quan đến hoạt động tài chính đó là :
- Lỗ do mua bán chứng khoán
- Chi phí cho các hoạt động đầu tư chứng khoán
- Chi phí dự phòng giảm giá đầu tư.
1.2.3. Nguồn hình thành lợi nhuận từ hoạt động bất thường
Là chênh lệch giữa thu và chi bất thường phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Được xác định như sau :
Kết quả hoạt động bất thường
=
Thu nhập hoạt động bất thường
-
Chi phí hoạt động bất thường
* Thu nhập hoạt động bất thường : là thu nhập từ các nghiệp vụ không thường xuyên của doanh nghiệp và nằm ngoài dự tính như :
- Thu do nhượng bán, thanh lý tài sản cố định
- Thu các khoản được phạt hợp đồng
- Thu lại nợ khó đòi đã xoá sổ.
- …
* Chi phí hoạt động bất thường : là những khoản chi phí do các sự kiện hay các nghiệp vụ riêng biệt với hoạt động thông thường bao gồm :
- Chi phí thanh lý nhượng bán tài sản
- Các khoản bị phạt, phải bồi thường.
- Ngân sách truy thu thuế.
- …
Cuối cùng tổng cộng 3 kết quả của các hoạt động đã nêu ở trên sẽ thu được toàn bộ lợi nhuận của tất cả các hoạt động của doanh nghiệp đó là :
Lợi nhuận HĐKD
=
Lợi nhuận HĐSXKD
+
Lợi nhuận HĐTC
+
Lợi nhuận HĐ bất thường
Đây là kết quả cuối cùng của doanh nghiệp nếu kết quả đó là số dương thì chứng tỏ doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, còn ngược lại chứng tỏ doanh nghiệp đã không bảo toàn được nguồn vốn đầu tư ban đầu hay hoạt động kém hiệu quả.
1.3. X ác định lợi nhuận theo phương pháp tỷ số
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không phụ thuộc rất lớn vào việc doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, là nguồn quan trọng để doanh nghiệp để tái đầu tư mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, lợi nhuận không phải là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động tài chính của một doanh nghiệp. Bởi lẽ lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính cuối cùng nên nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác. Nên để đánh giá chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp người ta cần phải kết hợp chỉ tiêu lợi nhuận với các chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận…
1.3.1. ROA ( Doanh lợi tài sản)
Lợi nhuận sau thuế (hoặc EBIT)
Doanh lợi tài sản (ROA) =
Tài sản
EBIT là lợi nhuận trước thuế và lãi
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư, nó cho thấy một đồng tài sản bỏ ra tạo được mấy đồng lợi nhuận. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi hoặc thu nhập sau thuế hay EBIT để so sánh với tổng tài sản.
Sau khi đã xác định được các tỷ lệ tài chính trên, ta tiến hành phân tích và so sánh với các năm để đánh giá tình trạng của doanh nghiệp. Nếu thu nhập được tỷ lệ bình quân ngành thì ta cũng đem so sánh với các chỉ tiêu ngành để đánh giá tình hình của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác trong ngành
1.3.2. ROE (Doanh lợi vốn chủ sở hữu)
Là tỉ số giữa thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
Lợi nhuận sau thuế
Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) =
Vốn chủ sở hữu
Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp, bởi vì tỷ số này cho biết một đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra đem lại mấy đồng lợi nhuận sau thuế. Tăng mức doanh lợi vốn chư sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp.
Lợi nhuận trên doanh thu :
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế ( lợi nhuận sau thuế) cho doanh thu. Nó phản ánh số lợi nhuận sau thuế trong một trăm đồng doanh thu.
Công thức tính doanh lợi tiêu thụ sản phẩm :
Lợi nhuận sau thuế
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm =
Doanh thu
Với một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, lợi nhuận là chỉ tiêu cuối cùng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ khi hoạt động có lợi nhuận doanh nghiệp mới có khả năng thanh toán những khoản nợ mà không ảnh hưởng tới nguồn vốn, mới có khả năng tái đầu tư mở rộng sản xuất để giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận, khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế, khả năng sinh lời là cơ sở quan trọng để đành giá kết quả sản xuất kinh doanh , là đáp số sau cùng của quá trình kinh doanh, tỷ số sinh lời phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của doanh nghiệp. Nó được các nhà đầu tư rất quan tâm và là cơ sở để nhà quản trị hoạch định chính sách
Chỉ tiêu này cho biết trong 100 đồng doanh thu thuần có bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Nếu tỷ suất này thấp hơn chỉ tiêu chung của toàn ngành, chứng tỏ doanh nghiệp bán hàng với giá thấp hơn hoặc giá thành sản phẩm của doanh nghiệp cao hơn so với các doanh nghiệp cùng nghành.
1.3.4. Tỷ suất lợi nhuận khác
Lợi nhuận là chỉ tiêu tuyệt đối để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhưng không thể vì thế mà nó là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cùng loại hình kinh doanh, cùng quy mô sản xuất, cùng vốn... và việc chỉ dùng chỉ tiêu lợi nhuận để đánh giá là chưa thật sự chính xác. Giả thiết rằng đối với các doanh nghiệp cùng loại, nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu về sẽ khác nhau, doanh nghiệp lớn hơn thường lợi nhuận thu về lớn hơn. Nhưng không phải vì thế mà đánh giá là doanh nghiệp lớn hơn hoạt động hiệu quả hơn. Do vậy, để đánh giá, so sánh chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối, còn phải dùng chỉ tiêu lợi nhuận tương đối còn gọi là chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận. Có nhiều cách xác định tỷ suất lợi nhuận khác nhau, mỗi cách có nội dung kinh tế khác nhau. Ở đây, chỉ xin đề xuất một số chỉ tiêu cơ bản liên quan đến đề tài này.
- Tỷ suất lợi nhuận theo vốn kinh doanh (TSLNTVKD )
TSLNVKD là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế so với tổng vốn kinh doanh trong kỳ.
Lợi nhuận sau thuế
TSLNVKD = x 100%
Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết, cứ 100 đồng vốn kinh doanh bỏ vào đầu tư sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Căn cứ chỉ tiêu này cho phép đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau về quy mô sản