Công cuộc đổi mới đất nước đã tạo cho nền kinh tế nước ta có được sự phát triển năng động như hiện nay, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động kinh tế vừa làm giàu cho mình vừa làm giàu cho đất nước. Từ đó, các loại hình công ty ở nước ta cũng xuất hiện rất nhiều khi nhà nước mở cửa thị trường. Ngoài các loại hình công ty nằm trong khối quốc doanh thì hiện nay các loại hình công ty mang tính chất tư nhân đang phát triển rầm rộ như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc hai thành viên trở lên .Trong đó, có một loại hình công ty khá phổ biến đó là công ty hợp danh. Công ty hợp danh là một trong những hình thức công ty ra đời sớm nhất trong lịch sử hình thành công ty, được thừa nhận là một chủ thể kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp Việt Nam 1999, đánh dấu lần đầu tiên loại hình công ty đối nhân chính thức được pháp luật Việt Nam ghi nhận và điều chỉnh, tạo nên một môi trường kinh doanh đa dạng các loại hình để các nhà kinh doanh lựa chọn, từ đó bắt kịp xu hướng chung của thế giới. Song thực tế hiện nay, cái tên “công ty hợp danh” còn khá là mới mẻ dù đã trải qua hơn mười năm từ khi pháp luật thừa nhận nó. Tuy luật Doanh nghiệp 2005 quy định khá chi tiết đã quy định khá chi tiết về loại hình công ty này, nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập và vô hình chung đã kìm hãm sự phát triển của loại hình công ty hợp danh. Chính vì lý do trên mà em quyết định chọn đề tài “Bình luận các quy định của luật doanh nghiệp 2005 về công ti hợp danh” để làm bài tập lớn học kì với mong muốn bổ sung và củng cố thêm kiến thức đã học.
20 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1902 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bình luận các quy định của luật doanh nghiệp 2005 về công ty hợp danh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới đất nước đã tạo cho nền kinh tế nước ta có được sự phát triển năng động như hiện nay, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động kinh tế vừa làm giàu cho mình vừa làm giàu cho đất nước. Từ đó, các loại hình công ty ở nước ta cũng xuất hiện rất nhiều khi nhà nước mở cửa thị trường. Ngoài các loại hình công ty nằm trong khối quốc doanh thì hiện nay các loại hình công ty mang tính chất tư nhân đang phát triển rầm rộ như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc hai thành viên trở lên….Trong đó, có một loại hình công ty khá phổ biến đó là công ty hợp danh. Công ty hợp danh là một trong những hình thức công ty ra đời sớm nhất trong lịch sử hình thành công ty, được thừa nhận là một chủ thể kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp Việt Nam 1999, đánh dấu lần đầu tiên loại hình công ty đối nhân chính thức được pháp luật Việt Nam ghi nhận và điều chỉnh, tạo nên một môi trường kinh doanh đa dạng các loại hình để các nhà kinh doanh lựa chọn, từ đó bắt kịp xu hướng chung của thế giới. Song thực tế hiện nay, cái tên “công ty hợp danh” còn khá là mới mẻ dù đã trải qua hơn mười năm từ khi pháp luật thừa nhận nó. Tuy luật Doanh nghiệp 2005 quy định khá chi tiết đã quy định khá chi tiết về loại hình công ty này, nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập và vô hình chung đã kìm hãm sự phát triển của loại hình công ty hợp danh. Chính vì lý do trên mà em quyết định chọn đề tài “Bình luận các quy định của luật doanh nghiệp 2005 về công ti hợp danh” để làm bài tập lớn học kì với mong muốn bổ sung và củng cố thêm kiến thức đã học.
NỘI DUNG
Khái niệm và đặc điểm chung của công ti hợp danh.
Khái niệm:
Công ty hợp danh là một loại hình công ty trong đó các thành viên chia sẻ lợi nhuận cũng như thua lỗ của công ty mà họ cùng nhau đầu tư vào. Tại hầu hết các nước, công ty hợp danh được tạo nên từ một hợp đồng hợp tác giữa các cá nhân, những người với tinh thần hợp tác, đồng ý thành lập nên doanh nghiệp, đóng góp cho nó bằng tài sản, hiểu biết, hoạt động và cùng chia sẻ lợi nhuận. Giữa các thành viên có thể có một hợp đồng hợp tác hoặc một bản tuyên bố hợp tác và trong một số hệ thống luật pháp, những thỏa thuận như vậy có thể được đăng ký và công bố rộng rãi cho công chúng. Ở nhiều nước, công ty hợp danh có thể được coi là có tư cách pháp nhân, trong khi một số nước khác lại có quan điểm trái ngược.
1.2. Đặc điểm:
Theo Điều 130 Luật doanh nghiệp Việt nam 2005 thì công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: Phải có ít nhất 2 thành viên là chủ sỡ hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên có thể có thành viên góp vốn; Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ công ty; Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty; Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Trong quá trình hoạt động, công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Như vậy, nếu căn cứ vào những đặc điểm trên thì công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp có thể được chia ra làm hai loại. Loại thứ nhất là loại chỉ gồm những thành viên hợp danh (hợp danh tuyệt đối). Loại thứ hai là công ty có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn loại này các nước gọi là công ty hợp vốn đơn giản (hợp danh hữu hạn) và cũng là một loại hình của công ty đối nhân. Nhưng hai “loại” này lại được quy định chung vào với nhau, không tách bạch. Việc Luật Doanh nghiệp 2005 gộp chung hai hình thức công ty hợp danh dưới một tên gọi chung và một quy chế pháp lý chung đã dẫn đến nhiều bất cập, mà trước hết là quy định về số lượng thành viên tối thiểu trong công ty hợp danh khi nó là điều kiện buộc công ty phải giải thể. Một trong những trường hợp mà các doanh nghiệp bắt buộc phải giải thể theo quy định tại Điều 157 Luật Doanh nghiệp 2005 đó là “Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn sáu tháng liên tục”. Đối với các loại hình doanh nghiệp khác thì cứ theo lượng thành viên tối thiểu mà luật Doanh nghiệp quy định, nếu không đủ trong sáu tháng liên tục thì giải thể, nhưng đối với công ty hợp danh là cả một vấn đề lớn. Đối với công ty hợp danh thông thường chỉ bao gồm một loại thành viên hợp danh thì rất đơn giản nhưng đối với công ty hợp danh hữu hạn, việc tồn tại của thành viên góp vốn có ý nghĩa quan trọng thay đổi bản chất công ty, luật chỉ quy định “ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn” mà không quy định trong công ty hợp danh hữu hạn thì phải có tối thiểu bao nhiêu thành viên góp vốn, nếu chỉ áp dụng điều kiện chung là không đủ hai thành viên hợp danh thì công ty giải thể, vậy khi không còn một thành viên góp vốn nào trong công ty hợp danh hữu hạn thì công ty không giải thể? Mà khi không còn thành viên góp vốn thì liệu rằng công ty đó có còn đúng bản chất là công ty hợp danh hữu hạn nữa hay không? Ta thấy quy định của pháp luật về vấn đề này còn cứng nhắc, khó áp dụng trong thực tiễn.
Pháp luật của đa số các nước trên thế giới đều phân tách riêng biệt hai loại công ty hợp danh với hai quy chế điều chỉnh riêng biệt, hoặc là chỉ chấp nhận một hình thức công ty hợp danh mang bản chất hợp danh tuyệt đối hoặc là thừa nhận sự tồn tại của hai loại công ty hợp danh và có những quy định riêng biệt tương ứng.
Thành lập công ty hợp danh:
Công ty hợp danh được thành lập và bắt đầu cuộc sống của nó với tư cách là một pháp nhân độc lập sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (K2 Điều 130 Luật DN 2005). Luật Việt Nam nhấn mạnh ý nghĩa của hành vi đăng ký kinh doanh. Trong khi đó, luật lệ nhiều nước lại xem hợp danh như khế ước, bởi vậy hợp danh có thể được thành lập thông qua thỏa thuận, đăng ký kinh doanh đôi khi chỉ có ý nghĩa công khai hóa. Lý do của vấn đề này có thể luận giải như sau: vì hợp danh trước hết là liên kết của hai hay nhiều người, luật pháp các nước thường đề cao thỏa thuận giữa các thành viên. Công ty hợp danh về nguyên tắc được thiết lập nếu các thành viên đã thỏa thuận cách thức hùn vốn, tạo tài sản chung, chia quyền điều hành và lỗ, lãi. Nói cách khác, khế ước giữa các bên đã xác lập nên hợp danh chứ không phải giấy chứng nhận của cơ quan đăng ký kinh doanh.
Mặc dù vậy, thỏa thuận thành lập công ty hợp danh cũng rất quan trọng theo pháp luật Việt Nam. Nội dung các thỏa thuận này được ghi nhận trong điều lệ công ty hợp danh và giấy đề nghị đăng ký kinh doanh (điều 17, 21, 22 Luật doanh nghiệp). Ngoài các quy định của luật doanh nghiệp, các quy định chung từ điều 388 đến điều 411 của BLDS 2005 vẫn có thể được dẫn chiếu để xem xét hiệu lực của thỏa thuận hợp danh, việc tuân thủ các nghĩa vụ đã cam kết của các thành viên cũng như trách nhiệm pháp lí nếu có vi phạm. Ngoài ra các thành viên hợp danh cần có chứng chỉ hành nghề (ví dụ thẻ luật sư, thẻ kiểm toán viên) đối với những dịch vụ cần có chứng chỉ và các điều kiện hành nghề khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành (khoản 5 điều 17 LDN). Hồ sơ, thủ tục thành lập công ty hợp danh được quy định trong Luật doanh nghiệpvà Nghị định 43/2010 của Chính Phủ về đang ký kinh doanh.
Thành viên công ty hợp danh:
Như vậy, theo quan điểm của các nhà làm luật nước ta thì công ty hợp danh có thể là công ty chỉ có một loại thành viên, đó là thành viên hợp danh. Cũng có thể công ty hợp danh có hai loại thành viên là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn, thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp vào công ty. Điều này khác với quan niệm của các nhà làm luật ở nước ngoài. Như đã nói ở trên, công ty hợp danh là công ty đối nhân điển hình. Tất cả các thành viên đều chịu trách nhiệm trực tiếp, liên đới và vô hạn về các khoản nợ của công ty. Nếu các thành viên thỏa thuận khác, chẳng hạn có một thành viên chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn thì lập tức công ty sẽ không còn là công ty hợp danh nữa mà chuyển thành hình thức công ty khác. Việc các nhà làm luật ở nước ta quy định công ty hợp danh có hai loại thành viên dẫn tới một điều không hợp lý là: “khi công ty hợp danh có hai loại thành viên - một là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới với nhau và một thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình - ra đời và hoạt động thì khách hàng, những người có làm ăn quan hệ với công ty, sẽ phải tìm hiểu rõ thành viên nào chịu trách nhiệm hữu hạn và thành viên nào chịu trách nhiệm vô hạn để giao dịch và đòi nợ. Bởi vì, thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn về khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn góp vào công ty. Khách hàng không có quyền đòi thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn trả toàn bộ số nợ cho mình, nếu số nợ đó lớn hơn phần vốn góp của thành viên này. Đây là điểm yếu của quy định pháp luật Việt Nam, với quy định như này thì vấn đề gặp rủi ro của khách hàng khi làm ăn với công ty sẽ cao hơn, hay nói cách khác là nhà làm luật đã đẩy rủi ro về phía khách hàng nhiều hơn.
Ta thấy luật quy định thành viên hợp danh chỉ có thể là cá nhân chứ không thể là pháp nhân vì trách nhiệm của thành viên hợp danh là trách nhiệm vô hạn, trách nhiệm này chỉ có cá nhân mới có thể đảm nhiệm được còn pháp nhân thì vấn đề này rất khó thực hiện. Đây là quy định rất đúng của luật. Còn với thành viên góp vốn thì luật quy định đó có thể là pháp nhân hoặc là cá nhân hoặc cả những người được quy định tại Điều 13 trừ cán bộ, công chức được quy định trong pháp lệnh cán bộ, công chức. Còn thành viên hợp danh thì phải tuân theo Điều 13 của luật doanh nghiệp 2003.
Chế độ chịu trách nhiệm:
Như đã nói ở trên thì công ty hợp danh có hai loại thành viên là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về các khoản nợ của công ty. Còn thành viên góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm theo phần vốn góp của thành viên đó vào công ty. Tuy nhiên, những quy định về thành viên góp vốn có sự mâu thuẫn với nhau, đó là mâu thuẫn giữa điểm c Khoản 1 Điều 130 với Khoản 3 Điều 131 và Khoản 2 Điều 140. Điểm c Khoản 1 Điều 130 quy định rằng thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Tuy nhiên, Khoản 3 Điều 131 thì quy định trường hợp thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó với công ty. Tại Khoản 2 Điều 140 quy định thành viên góp vốn chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp. Như vậy khi xảy ra tranh chấp thật khó xác định, việc xác định ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước. Song theo tôi nên quy định thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty.
Phát hành chứng khoán.
Theo quy định của luật doanh nghiệp tất cả các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân đều được phát hành trái phiếu trừ công ty hợp danh. Nguyên nhân của sự khác nhau về quyền phát hành chứng khoán giữa công ty hợp danh và các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp xuất phát từ tính chất đóng và hạn chế tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp danh. Thực tế lý do này chưa thỏa đáng. Cổ phiếu (phổ thông) đem lại quyền sở hữu và quyền quản trị công ty cho chủ sở hữu cổ phần là các cổ đông. Trái phiếu đem lại trái quyền cho chủ sở hữu trái phiếu đó, họ trở thành chủ nợ của công ty và việc phát hành trái phiếu chỉ ảnh hưởng tới khả năng tài chính của công ty. Do vậy, việc pháp luật không cho phép công ty hợp danh phát hành cổ phiếu là hoàn toàn phù hợp với bản chất của loại hình công ty này. Nhưng việc phát hành trái phiếu để huy động vốn cũng không ảnh hưởng đến tính chất đóng và hạn chế tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp danh.
Tư cách pháp lý của công ti.
Nếu như Luật doanh nghiệp năm 1999 không quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân thì đến Luật doanh nghiệp năm 2005, các nhà làm luật đã quy định điều này. Với tư cách pháp lý này, công ty hợp danh thuận lợi hơn trong các quan hệ pháp luật và cũng phải chịu những trách nhiệm như các pháp nhân khác. Các nhà làm luật đã làm cho công ty hợp danh có tài sản riêng (một trong những yêu cầu của pháp nhân) bằng cách quy định: khi thành viên góp vốn vào công ty thì phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty. Tuy nhiên, quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân có ổn hay không? Hãy cùng xem xét vấn đề này.
Luật doanh nghiệp năm 2005 thừa nhận công ty hợp danh là một pháp nhân trong khi vẫn quy định về chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của ít nhất hai thành viên hợp danh đối với các khoản nợ của công ty là chưa nhất quán với quy định về pháp nhân trong bộ luật. Khoản 3 Điều 84 BLDS quy định pháp nhân không những phải có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác mà pháp nhân còn phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Theo luật doanh nghiệp khi tài sản của công ty hợp danh không còn đủ để thanh toán thì các thành viên hợp danh phải đem tài sản riêng của mình để thanh toán khoản nợ đến hạn của công ty. Bên cạnh đó, Khoản 3 Điều 93 BLDS quy định: “Thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ do pháp nhân xác lập, thực hiện”. Bởi vậy, trong trường hợp trên, theo quy định của luật doanh nghiệp thì rõ ràng thành viên pháp nhân đã phải chịu trách nhiệm dân sự thay pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, như vậy là mâu thuẫn với bộ luật dân sự.
Các quy định về công ty hợp danh:
2.1. Bản chất pháp lý của công ty hợp danh:
Cũng như đặc tính chung của tất cả công ty đối nhân, mỗi thành viên trong công ty hợp danh đều có phần của mình trong công ty gọi là phần lợi. Phần lợi của mỗi người tương ứng với phần vốn góp của họ vào công ty. Vốn góp của các thành viên có thể là tài sản hoặc hiện vật, có khi vốn góp chỉ là uy tín kinh doanh. Nếu một người góp vốn bằng uy tín kinh doanh hay bằng giá trị tinh thần khác thì phần vốn góp đó phải được trị giá bằng tài sản tương ứng. Công ty hợp danh phải hoạt động dưới một hãng chung và đặt tên công ty theo luật định. Hợp danh có nghĩa là kinh doanh dưới một tên chung cho nên tên của công ty phải mang tên ít nhất của một thành viên kèm theo các chữ “và công ty”, “và các con” hoặc “và anh em”…đặt tên cho công ty là để phân biệt công ty này với công ty khác.
Trong công ty hợp danh, tất cả các thành viên hợp danh đều có tư cách thương nhân. Điều này có nghĩa là nếu muốn trở thành thành viên của công ty hợp danh thì cần phải có năng lực cần thiết mà pháp luật quy định để hành nghề kinh doanh. Vì có tư cách thương nhân nên mỗi thành viên hợp danh đều phải ghi tên mình vào sổ thương mại. Nếu công ty bị phá sản thì mỗi thành viên đương nhiên bị công bố phá sản. Sở dĩ như vậy là vì mỗi thành viên đều phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về công việc của công ty, do đó mặc dù công ty là một tổ chức biệt lập nhưng trách nhiệm của công ty cũng đồng nhất với trách nhiệm của mỗi thành viên.
Việc thay đổi thành viên trong công ty hợp danh rất khó khăn, chỉ cần có một thành viên chết hoặc ra khỏi công ty là công ty có thể bị giải thể. Ngược lại, thành viên hợp danh của công ty muốn ra khỏi công ty chỉ có cách xin giải thể công ty hoặc chờ đến ngày công ty hết thời hạn đăng kí. Các thành viên của hợp danh không được chuyển nhượng phần vốn góp của mình trong công ty cho người khác. Sở dĩ có quy định như vậy là bởi bất cứ việc chuyển nhượng phần vốn nào trong bất cứ loại hình công ty nào cũng đều dẫn đến sự thay đổi của các thành viên. Mà việc thay đổi của các thành viên trong công ty hợp danh đều dẫn tới việc giải thể công ty. Chính vì thế mà các nhà làm luật không cho các thành viên hợp danh tự do chuyển nhượng phần vốn góp của mình. Việc quy định này rất có lợi cho công ty hợp danh vì nó tránh được sự xâm nhập của người ngoài vào công ty.
Tuy nhiên việc chuyển nhượng vốn của các thành viên góp vốn không bị cấm và không bị hạn chế. Các thành vên góp vốn giống như một bộ trợ lực cho công ty hợp danh chứ không phải là nguyên nhân để ra đời công ty, vì thế trợ lực đó có thể bị thay đổi mà không làm ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty
2.2. Quy chế thành viên trong công ty
Thành viên hợp danh.
Thành viên hợp danh theo quy định của luật phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải tự mình chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty và phải đáp ứng đủ điều kiện như quy định của Điều 13 luật doanh nghiệp 2005.
Một trong các điều kiện tiên quyết của thành viên hợp danh trong công ty hợp danh phải là cá nhân. Các đối tượng khác như pháp nhân, tổ chức… không thể trở thành thành viên hợp danh của công ty này vì thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Điều này chỉ có cá nhân mới có thể làm còn tổ chức hoặc pháp nhân thì rất khó để thực hiện. Nếu công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực ngành nghề như dịch vụ pháp lý, khám chữa bệnh, dược phẩm, dịch vụ thú y, thiết kế công trình, kiểm toán, môi giới chứng khoán..thì các thành viên phải có chứng chỉ hành nghề; các trường hợp khác các thành viên hợp danh phải là người được đào tạo về ngành nghề đăng ký kinh doanh.
Xuất phát từ chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh mà Điều 134 Luật doanh nghiệp 2005 quy định thành viên hợp danh có quyền quyết định các vấn đề của công ty, tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh công ty, cùng liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty.
Như vậy có thể nói rằng các thành viên hợp danh trong công ty hợp danh có quyền tự điều hành, quản lý công ty, sử dụng tài sản của công ty vào việc kinh doanh nhân danh công ty đến những việc nội bộ khác của công ty cũng như nhận được thông tin về hoạt động kinh doanh của công ty. Có thể nói, trong công công ty hợp danh, các thành viên hợp danh được luật quy định cho các quyền của một chủ công ty thực sự. Đi đôi với quyền là chế độ chịu trách nhiệm vô hạn mà mỗi thành viên hợp danh phải gánh vác khi thực hiện hoạt động kinh doanh nhân danh công ty. Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty từ khi đăng ký vào danh sách thành viên của công ty, bất kể là thành viên đó trực tiếp tham gia thực hiện các dịch vụ phát sinh trách nhiệm ấy hay không.
Trách nhiệm của thành viên hợp danh là trách nhiệm vô hạn và liên đới, thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm với các nghĩa vụ của công ty ngay từ khi đăng kí trở thành thành viên của công ty, phải chịu trách nhiệm ngay cả khi chưa được hưởng một chút lợi nhuận nào và thậm chí phải chịu trách nhiệm ngay cả khi đã chấm dứt tư cách thành viên hợp danh với các nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động trước khi thành viên đó chấm dứt tư cách thành viên của công ty. Theo Điều 133 của luật doanh nghiệp thì: “ thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của doanh nghiệp tư nhân khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên còn lại”. Quy định này xuất phát từ lý do thành viên hợp danh chỉ có thể chịu trách nhiệm vô hạn một lần, bởi lẽ, một cá nhân thì chỉ có một khối tài sản chung duy nhất, cho nên không thể chịu trách nhiệm vô hạn nhiều hơn một lần. Mặt khác, quy định như vậy là cũng tránh tình trạng giữa bản thân thành viên hợp danh và công ty hợp danh tranh chấp quyền lợi với nhau.
Luật pháp đề cao vai trò của thành viên hợp danh trong công ty hợp danh thông qua việc quy đinh tất cả các thành viên hợp danh của công ty hợp danh đều có tư cách thương nhân. Điều này, có nghĩa là các thành viên hợp danh có quyền hoạt động thương mại một cách độc lập, song theo Khoản 2 Điều 133 thì thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợ