Bình luận các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp; ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp

Đối với mỗi quốc gia, thuế một vai trò hết sức quan trọng, vừa là công cụ kinh tế hỗ trợ cho sự tồn tại của nhà nước vừa được nhà nước sử dụng như một công cụ để thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu nhất định. Trong hệ thống thuế nước ta, thuế thu nhập doanh nghiệp xuất hiện từ rất sớm và giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước và thực hiện phân phối thu nhập. Tiền thân của thuế thu nhập doanh nghiệp chính là thuế lợi tức, một loại thuế đánh vào thu nhập của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, đã được áp dụng từ trước năm 1990 và được cụ thể hóa thành Luật thuế lợi tức vào năm 1990. Đến ngày 10/5/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay thế cho Luật thuế lợi tức (Luật này được thay thế bởi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi, ban hành ngày 17/6/2003). Tiếp đó đến ngày 3/6/2008, Quốc hội đã thông qua Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành). Có thể thấy Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 đã có nhiều thay đổi so với Luật cũ đặc biệt là trong các quy định về đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên trong thực tiến áp dụng, Luật vẫn bộc lộ những hạn chế, bất cập cần phải xem xét và sửa đổi, bổ sung. Để làm rõ những điểm mới trong quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 về đối tượng nộp thuế và giải pháp để thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp em xin chọn đề tài “Bình luận các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp; ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp”.

doc16 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2177 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bình luận các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp; ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời mở đầu …………………………………………………………………………………1 Nội dung ……………………………………………………………………………………2 I – Khái quát chung về thuế TNDN ………………………………………………………2 Khái niệm ……………………………………………………………………………2 Vai trò ………………………………………………………………………………..2 II - Các quy định về đối tượng nộp thuế TNDN theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008…………………………………...3 Đối tượng nộp thuế TNDN theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008……………………………………………3 Nhận xét, đánh giá các quy định về đối tượng nộp thuế TNDN theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 ………………………………….….7 III - Một số ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế TNDN …………………10 Thực trạng áp dụng thuế TNDN ở nước ta ……………………………………...10 Một số ý kiến nhằm thực thi tốt pháp luật thuế TNDN ………………………...12 Kết luận …………………………………………………………………………………..14 Danh mục tài liệu tham khảo ……………………………………………………………15 LỜI MỞ ĐẦU Đối với mỗi quốc gia, thuế một vai trò hết sức quan trọng, vừa là công cụ kinh tế hỗ trợ cho sự tồn tại của nhà nước vừa được nhà nước sử dụng như một công cụ để thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu nhất định. Trong hệ thống thuế nước ta, thuế thu nhập doanh nghiệp xuất hiện từ rất sớm và giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước và thực hiện phân phối thu nhập. Tiền thân của thuế thu nhập doanh nghiệp chính là thuế lợi tức, một loại thuế đánh vào thu nhập của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, đã được áp dụng từ trước năm 1990 và được cụ thể hóa thành Luật thuế lợi tức vào năm 1990. Đến ngày 10/5/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay thế cho Luật thuế lợi tức (Luật này được thay thế bởi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi, ban hành ngày 17/6/2003). Tiếp đó đến ngày 3/6/2008, Quốc hội đã thông qua Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành). Có thể thấy Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 đã có nhiều thay đổi so với Luật cũ đặc biệt là trong các quy định về đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên trong thực tiến áp dụng, Luật vẫn bộc lộ những hạn chế, bất cập cần phải xem xét và sửa đổi, bổ sung. Để làm rõ những điểm mới trong quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 về đối tượng nộp thuế và giải pháp để thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp em xin chọn đề tài “Bình luận các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp; ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp”. NỘI DUNG I – Khái quát chung về thuế thu nhập doanh nghiệp. 1. Khái niệm Trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) có thể hiểu như sau: “Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập của các loại hình doanh nghiệp, tổ chức có hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo sự đóng góp công bằng, hợp lý giữa các tổ chức sản, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển”. Từ định nghĩa trên, có thể rút ra một số đặc điểm của TNDN: Thuế TNDN là loại thuế trực thu: bởi đối tượng nộp thuế TNDN đồng thời cũng là đối tượng chịu thuế Thuế TNDN đánh vào lợi nhuận của doanh nghiệp. Đó là phần thu nhập hợp pháp từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng, hóa, dịch vụ và các hoạt động khác của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các chi phí hợp lý. Thuế TNDN đánh vào lợi nhuận của doanh nghiệp nên nó phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và thường gắn với chính sách kinh tế-xã hội của đất nước trong từng thời kỳ do đó thuế TNDN có tính ổn định không cao và khá phức tạp. 2. Vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp. Thứ nhất, thuế TNDN là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Điều này thể hiện bởi phạm vi áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp rất rộng, bao gồm tất cả các tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của luật thuế TNDN. Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, quy mô của hoạt động sản xuất, kinh doanh được mở rộng thì lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ngày càng nhiều. Từ đó tạo nguồn thu lớn cho ngân sách quốc gia. Thứ hai, thuế TNDN là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước trong việc điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhất định. Thông qua hệ thống thuế suất ưu đãi và các chế độ miễn giảm thuế nhà nước định hướng cho các nhà đầu tư trong nhiều ngành, lĩnh vực mà nhà nước cần khuyến khích đầu tư để đảm bảo cơ cấu kinh tế hợp lý theo ngành và theo lãnh thổ. Từ đó góp phần khuyến khích, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo những chiến lược, kế hoạch mà nhà nước đề ra. Thứ ba, thuế TNDN là công cụ quan trọng để nhà nước thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập, bảo đảm công bằng xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp tự do sản xuất, kinh doanh, tự do cạnh tranh dẫn đến sự phân hóa giữa một bên là các doanh nghiệp có năng lực tài chính mạng, lao động có tay nghê, điều kiện kinh doanh tốt, tạo ra nguồn thu nhập lớn, một bên là các doanh nghiệp bị hạn chế về năng lực tài chính, trình độ có thu nhập thấp. Để đảm bảo công bằng xã hội, nhà nước sử dụng thuế TNDN như một công cụ để điều tiết thu nhập giữa các doanh nghiệp. II – Các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008. 1. Đối tượng nộp thuê thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008. * Đối tượng nộp thuế TNDN được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật thuế TNDN 2008 như sau: “1. Người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật này (sau đây gọi là doanh nghiệp), bao gồm: Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam; Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài (sau đây gọi là doanh nghiệp nước ngoài) có cơ sở thường trú hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam; Tổ chức được thành lập theo Luật hợp tác xã; Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam; Tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập.” a/ Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 nghị định 124/2008/NĐ-CP thì doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam bao gồm các doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Đầu tư, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Chứng khoán, Luật Dầu khí, Luật Thương mại và quy định tại các văn bản pháp luật khác dưới các hình thức: công ty cổ phần; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty hợp danh; doanh nghiệp tư nhân; công ty Nhà nước; các bên trong hợp đồng hợp tác kinh doanh; các bên trong hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí, xí nghiệp liên doanh dầu khí, công ty điều hành chung. Đối với các doanh nghiệp thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam phải nộp thuế đối với phần thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam (điểm a khoản 2 Điều 2 Luật thuế TNDN) b/ Doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam. Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật thuế TNDN thì Cơ sở thường trú của doanh nghiệp nước ngoài là cơ sở sản xuất, kinh doanh mà thông qua cơ sở này, doanh nghiệp nước ngoài tiến hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mang lại thu nhập, bao gồm: Chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, công xưởng, phương tiện vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu, khí hoặc địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên khác tại Việt Nam; Địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp; Cơ sở cung cấp dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm công hay một tổ chức, cá nhân khác; Đại lý cho doanh nghiệp nước ngoài; Đại diện tại Việt Nam trong trường hợp là đại diện có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài nhưng thường xuyên thực hiện việc giao hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong trường hợp Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết có quy định khác về cơ sở thường trú thì thực hiện theo quy định của Hiệp định đó (khoản 1 Điều 1 thông tư 130/2008/TT-BTC). Doanh nghiệp nước ngoài nộp thuế TNDN như sau: Đối với doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam: Nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú đó. Nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam mà khoản thu nhập này không liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú. Đối với doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam. c/ Tổ chức được thành lập theo Luật hợp tác xã. Tổ chức được thành lập theo Luật hợp tác xã nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam. d/Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam bao gồm các đơn vị sự nghiệp công lập, ngoài công lập sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định tại Điều 3 nghị định 124/2008/NĐ-CP. Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng phải nộp thuế đối với toàn bô phần thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam. e/Tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập. Là các tổ chức có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và có thu nhập chịu thuế ngoài các đối tượng đã nêu ở trên. * Đối tượng nộp thuế TNDN là các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về thuế: Để khuyến khích tổng thể nên kinh tế, đảm bảo công bằng, thu hút đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn và một số ngành, lĩnh vực quan trọng theo chính sách phát triển của nhà nước, Luật thuế TNDN 2008 quy định về ưu đãi thuế TNDN về thuế suất và thời gian miễn, giảm thuế đối với các đối tượng: Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế, khu công nghệ cao; doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của nhà nước, sản xuất phần mềm được áp dụng thuế suất 10% trong thời gian 15 năm, được miễn thuế tối đa không quá 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá 9 năm tiếp theo. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường (lĩnh vực xã hội hóa) được áp dụng thuế suất 10% trong suốt thời gian hoạt động. Đối với doanh nghiệp thành lập mới trong lĩnh vực xã hội hóa được thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo nghị định 124/2008/NĐ-CP thì được miễn thuế tối đa 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Còn các doanh nghiệp thành lập mới trong lĩnh vực xã hội hóa thực hiện tại địa bàn không thuộc danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khắn thì được miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 5 năm tiếp theo. Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn được áp dụng thuế suất 20% trong thời gian 10 năm, được miễn thuế tối đa không quá 2 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá 4 năm tiếp theo. Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và quỹ tín dụng nhân dân được áp dụng thuế suất 20% trong suốt thời gian hoạt động. Ngoài các còn có một số trường hợp khác cũng được giảm thuế: Doanh nghiệp sản xuất, xây dựng, vận tải sử dụng nhiều lao động nữ được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp bằng số chi thêm cho lao động nữ, gồm: chi đào tạo nghề; chi phí tiền lương và phụ cấp (nếu có) cho cô giáo dạy ở nhà trẻ, mẫu giáo do doanh nghiệp tổ chức và quản lý; chi khám sức khỏe thêm trong năm; chi bồi dưỡng cho lao động nữ sau khi sinh con; lương, phụ cấp trả cho thời gian lao động nữ được nghỉ sau khi sinh con, nghỉ cho con bú theo chế độ nhưng vẫn làm việc. Doanh nghiệp sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp bằng số chi trả thêm cho lao động là người dân tộc thiểu số để đào tạo nghề, tiền hỗ trợ về nhà ở, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người dân tộc thiểu số trong trường hợp chưa được nhà nước hỗ trợ theo chế độ quy định. 2. Nhận xét, đánh giá các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008. 2.1 Những ưu điểm trong các quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 về đối tượng nộp thuế. So với Luật thuế TNDN năm 2003 thì Luật thuế TNDN 2008 đã có những thay đổi đáng kể trong các quy định về đối tượng nộp thuế TNDN, thể hiện những ưu điểm so với Luật cũ: Thứ nhất, Luật thuế TNDN 2008 quy định đối tượng nộp thuế TNDN chỉ bao gồm các tổ chức, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Như vậy so với Luật cũ, Luật thuế TNDN 2008 đã loại bỏ cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ra khỏi đối tượng nộp thuế. Quy định này là phù hợp bởi ngày 21/11/2007 Quốc hội đã thông qua Luật thuế thu nhập cá nhân do đó các đối tượng nộp thuế TNDN là cá nhân, hộ kinh doanh được chuyển sang nộp thuế theo Luật thuế thu nhập cá nhân. Đồng thời nó cũng khắc phục những hạn chế của Luật thuế TNDN 2003 về đối tượng nộp thuế: Tên gọi của Luật mới đã phù hợp với nội dung của Luật. Nếu như theo các quy định của Luật thuế TNDN 2003 thì mặc dù tên gọi của luật là Luật thuế thu nhập doanh nghiệp nhưng đối tượng nộp thuế lại bao gồm cả cá nhân. Như vậy tên gọi và nội dung của Luật không hoàn toàn phù hợp. Việc loại trừ cá nhân, hộ gia đình kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ra khỏi đối tượng nộp thuế TNDN là phù hợp với thông lệ quốc tế vì những đối tượng này theo tính chất thì phải là đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân. Quy định này cũng góp phần khắc phục sự phức tạp trong quá trình thu và nộp thuế trong trường hợp một cá nhân vừa có thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vừa có thu nhập từ tiền lương và các khoản thu nhập khác bị điều chỉnh bởi hai luật thuế khác nhau. Thứ hai, về đối tượng được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cũng có điểm mới so với Luật cũ: Luật thuế TNDN 2008 đã có sự thống nhất trong cơ chế ưu đãi thuế, đáp ứng yêu cầu không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Luật thuế TNDN 2008 cũng đã khắc phục những hạn chế trong các quy định ưu đãi dàn trải của Luật cũ. Do ưu đãi dàn trải vừa theo ngành nghề, lĩnh vực vừa theo địa bàn trong quy định của Luật thuế TNDN 2003 đã dẫn đến tình trạng các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài chỉ tập trung vào các khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc những nơi có điều kiện thuận lợi như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng… Hạn chế đó khiến cho thuế TNDN không phát huy được vai trò là công cụ phân bổ nguồn lực phát triển kinh tế theo vùng và theo lãnh thổ. Các quy định mới về ưu đãi thuế TNDN trong Luật thuế TNDN 2008 theo nguyên tắc giữ mức thuế ưu đãi cao nhất để không ảnh hưởng đến môi trường đầu tư đồng thời thu hẹp diện ưu đãi theo lĩnh vực để tạo sức hấp dẫn của mức ưu đãi cao theo địa bàn đã thu hút đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn và một số ngành, lĩnh vực quan trọng mà nhà nước chú trọng. Những thay đổi trong đối tượng được hưởng ưu đãi thuế TNDN đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của nước ta phù hợp với xu thế của các nước trên thế giới và trong khu vực, nâng cao tính cạnh tranh của cộng đồng doanh nghiệp và nền kinh tế, tạo điều kiện cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Bên cạnh đó việc quy định các đối tượng được hưởng ưu đãi về thuế một cách rõ ràng, cụ thể đã giúp các doanh nghiệp dễ dàng xác định mình có thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi về thuế hay không. 2.2 Nhược điểm còn tồn tại trong các quy định của Luật thuế TNDN 2008 về đối tượng nộp thuế TNDN. Bên cạnh những ưu điểm đã nêu ở trên, trong các quy định về đối tượng nộp thuế TNDN của Luật thuế TNDN 2008 còn bộc lộ một số hạn chế đòi hỏi phải khắc phục trong thời gian tới: Thứ nhất, tại điểm c khoản 2 Điều 2 Luật thuế TNDN có đề cập tới doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam mà khoản thu nhập này không liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú còn không rõ ràng. Về lý thuyết, luật pháp cũng như quyền đánh thuế của quốc gia thì khi một chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ quốc gia khác, nếu có thu nhập phát sinh do hoạt động kinh doanh thì chủ thể kinh doanh đó có trách nhiệm phải đóng thuế. Như vậy tức là khi doanh nghiệp nước ngoài có thu nhập phát sinh tại Việt Nam thì đều phải nộp thuế TNDN mà không phân biệt thu nhập chịu thuế đó có liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú hay không. Việc tách riêng thu nhập chịu thuế có liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú và thu nhập chịu thuế không liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú là không cần thiết. Thứ hai, Luật thuế TNDN 2008 quy định đối tượng nộp thuế TNDN là tổ chức, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế. Trong thực tiễn ở nước ta hiện nay đã xuất hiện các tổ chức thuộc Hội khuyến nông, Hội khuyến học, Hội bảo trợ người tàn tật… và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam như Hội đồng Anh, Cộng đồng Pháp ngữ… Đây là các tổ chức tham gia tích cực vào một số lĩnh vực của đời sống xã hội, cung cấp một số dịch vụ công mang tính tự nguyện, từ thiện như đào tạo, tư vấn, hoạt động giao lưu phát triển văn hóa, nghiên cứu khoa học… Thu nhập từ hoạt động của các tổ chức này được sử dụng cho mục đích, tôn chỉ nêu trên mà không phân chia. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật hiện hành thì các tổ chức này vẫn phải nộp thuế TNDN như các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh khác. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển hoạt động của các tổ chức đó. Thứ ba, bất cập trong quy định về đối tượng nộp thuế với những tổ chức có hoạt động đặc thù ví dụ hoạt động báo chí. Có thể thấy các cơ quan báo chí không phải là doanh nghiệp kinh doanh thuần túy mà đây là một loại hình đặc thù trong đó có đặc thù về công cụ tư tưởng, văn hóa, giáo dục… Sản phẩm báo chí là sản phẩm tư tưởng – văn hóa, không thể tính bằng tiền một cách cụ thể. Tuy nhiên hiện nay báo chí lại đang là đối tượng nộp thuế TNDN và bị áp dụng các quy định về thuế giống như tất cả các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ khác. Đây là một điều bất hợp lí. Là ngành đặc thù báo chí cần phải được áp dụng chính sách tài chính đặc thù, cần phải có chính sách ưu tiên, hỗ trợ hoạt động báo chí theo đúng quy định của pháp luật. III – Một số ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp 1. Thực trạng áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp ở nước ta Trong hơn 2 năm thực hiện Luật thuế TNDN 2008 đã phát những hiệu quả tích cực trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, góp phần khuyến khích đầu tư, giúp nhà nước nắm được tình hình của các doanh nghiệp để có chính sách đúng đắn trong quản lý vĩ mô, sắp xếp lại doanh nghiệp, thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường hạch toán kinh doanh, củng cố công tác hóa đơn chứng từ, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế TNDN. Bảng1. Tổng thu ngân sách nhà nước từ thuế TNDN (2009-2010) (đơn vị: tỉ đồng) 2009 2010 Tổng thu ngân sách nhà nước 466.286 528.100 Thu thuế thu nhập doanh nghiệp 112.164 140.736 Tỉ trọng so với tổng thu ngân sách nhà nước (%) 24,1 26,6 (Nguồn: Bộ Tài chính) Tuy nhiên bên cạnh nhữn
Luận văn liên quan