Kinh doanh chứng khoán là một hoạt động kinh doanh quyết định sự sôi động và hiệu quả của thị trường. Thông thường các quốc gia khi quy định về kinh doanh chứng khoán là quy định những vấn đề liên quan tới các đối tượng trực tiếp tham gia vào thị trường nhằm mục đích kiếm lời. Vì vậy, pháp luật về kinh doanh chứng khoán quy định về các tổ chức kinh doanh và làm dịch vụ cho các hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Đối với Việt Nam, pháp luật quy định rõ các loại chủ thể kinh doanh chứng khoán cùng với những nội dung kinh doanh được phép tiến hành cho mỗi loại chủ thể mới là thành viên sở giao dịch chứng khoán hay trung tâm giao dịch chứng khoán. Theo đó, pháp luật Việt Nam quy định các mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán bao gồm: công ty chứng khoán, quỹ đầu tư và công ty đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư và ngân hàng giám sát.
Các mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam có đầy đủ, giống với trên thế giới và các văn bản Việt Nam tham gia ký kết với nước ngoài không? Bài viêt dưới đây: “Bình luận mức độ phù hợp của quy định hiện hành với cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.” Bài viết phân tích về các mô hình chủ thể, đưa ra những nhận xét pháp lý và phương hướng hoàn thiện.
16 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1982 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bình luận mức độ phù hợp của quy định hiện hành với cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu.
Kinh doanh chứng khoán là một hoạt động kinh doanh quyết định sự sôi động và hiệu quả của thị trường. Thông thường các quốc gia khi quy định về kinh doanh chứng khoán là quy định những vấn đề liên quan tới các đối tượng trực tiếp tham gia vào thị trường nhằm mục đích kiếm lời. Vì vậy, pháp luật về kinh doanh chứng khoán quy định về các tổ chức kinh doanh và làm dịch vụ cho các hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Đối với Việt Nam, pháp luật quy định rõ các loại chủ thể kinh doanh chứng khoán cùng với những nội dung kinh doanh được phép tiến hành cho mỗi loại chủ thể mới là thành viên sở giao dịch chứng khoán hay trung tâm giao dịch chứng khoán. Theo đó, pháp luật Việt Nam quy định các mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán bao gồm: công ty chứng khoán, quỹ đầu tư và công ty đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư và ngân hàng giám sát.
Các mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam có đầy đủ, giống với trên thế giới và các văn bản Việt Nam tham gia ký kết với nước ngoài không? Bài viêt dưới đây: “Bình luận mức độ phù hợp của quy định hiện hành với cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.” Bài viết phân tích về các mô hình chủ thể, đưa ra những nhận xét pháp lý và phương hướng hoàn thiện.
Nội dung
Mô hình của chủ thể kinh doanh chứng khoán theo những cam kết quốc tế của Việt Nam.
Khi tiến hành gia nhập WTO Việt Nam đã ký kết các gói cam kết quan trọng. Trong đó có gói cam kết về dịch vụ tài chính với ba mảng lớn và liên quan đến các dịch vụ chứng khoán, Việt Nam cam kết cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp các dịch vụ chứng khoán sau tại Việt Nam:
Giao dịch cho tài khoản của mình hoặc tài khoản của khách hàng tại sở giao dịch chứng khoán, thị trường giao dịch trực tiếp (OTC) hay các thị trường khác những sản phẩm sau:
Các công cụ phái sinh, bao gồm cả hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền lựa chọn;
Các chứng khoán có thể chuyển nhượng;
Các công cụ có thể chuyển nhượng khác và các tài sản tài chính, trừ vàng khối. (Các dịch vụ này bao gồm cả nghiệp vụ môi giới)
Tham gia vào các đợt phát hành mọi loại chứng khoán, bao gồm bảo lãnh phát hành, và làm đại lý bán (chào bán ra công chúng hoặc chào bán riêng), cung cấp các dịch vụ liên quan đến các đợt phát hành đó);
Quản lý tài sản (bao gồm quản lý danh mục đầu tư, mọi hình thức quản lý đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ lưu ký và tín thác);
Các dịch vụ thanh toán và thanh toán bù trừ chứng khoán, các công cụ phái sinh và các sản phẩm liên quan đến chứng khoán khác;
Cung cấp và chuyển thông tin tài chính, các phần mềm liên quan của các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán.
Ngoài ra, Việt Nam cam kết cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động chứng khoán ở Việt Nam dưới các hình thức và điều kiện sau đây:
Văn phòng đại diện (với điều kiện các văn phòng đại diện không được thực hiện các hoạt động kinh doanh sinh lời trực tiếp);
Liên doanh với đối tác Việt Nam (với điều kiện tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không vượt quá 49%);
Doanh nghiệp chứng khoán 100% vốn nước ngoài (kể từ 11/1/2012);
Chi nhánh của công ty chứng khoán nước ngoài (kể từ 11/1/2012 và kèm theo điều kiện hoạt động của chi nhánh chỉ giới hạn ở cung cấp các dịch vụ quản lý tài sản, thanh toán và thanh toán bù trừ chứng khoán, cung cấp và chuyển thông tin tài chính, các phần mềm liên quan.
Như vậy, đối với mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán mặc dù không chỉ chính xác tên các loại hình nhưng cũng thể hiện thiện chí của Viêt Nam khi tiến hành ký các cam kết. Theo những cam kết này, Việt Nam gián tiếp thừa nhận các mô hình chủ thể đặc trưng của hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Tuy nhiên, để đưa ra một cách nhìn toàn diện, chi tiết hơn về mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán, mức độ phù hợp theo quy định hiện hành của Việt Nam thì có thể tìm hiểu về mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán chung trên thế giới.
1.1.1. Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là tổ chức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai mô hình tổ chức của công ty chứng khoán: mô hình công ty đa năng và mô hình công ty chuyên doanh.
Thứ nhất: Theo mô hình công ty đa năng, công ty chứng khoán là một bộ phận cấu thành của ngân hàng thương mại. hay nói cách khác. Ngân hàng thương mại kinh doanh trên cả hai lĩnh vực là tiền tệ và chứng khoán.
Thông thường theo mô hình này, NHTM cung ứng các dịch vụ tài chính rất đa dạng và phong phú liên quan đến kinh doanh tiền tệ, kinh doanh chứng khoán và các hoạt động kinh doanh khác trong lĩnh vực tài chính.
Mô hình này có ưu điểm và hạn chế sau:
* Ưu điểm
- NHTM kinh doanh nhiều lĩnh vực nên có thể giảm bớt được rủi ro hoạt động kinh doanh chung, có khả năng chịu được các biến động lớn trên thị trường chứng khoán.
- NHTM là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ có lịch sử lâu đời, có thế mạnh về tài chính và chuyên môn trong lĩnh vực tài chính. Do đó cho phép các NHTM tham gia kinh doanh chứng khoán sẽ tận dụng đựơc thế mạnh của ngân hàng, tạo động lực cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
* Hạn chế
- Do thế mạnh về tài chính, chuyên môn, nên NHTM tham gia kinh doanh chứng khoán có thể gây lũng đoạn thị trường, trong trường hợp quản lý nhà nước về lĩnh vực chứng khoán và quản trị điều hành thị trường còn yếu.
- Do tham gia nhiều lĩnh vực sẽ làm giảm tính chuyên môn hoá, khả năng thích ứng và linh hoạt kém.
- Trong trường hợp thị trường chứng khoán có nhiều rủi ro. Ngân hàng có xu hướng bảo thủ rút khỏi thị trường chứng khoán để tập trung kinh doanh tiền tệ.
Thứ hai: Mô hình công ty chuyên doanh: Theo mô hình này, kinh doanh chứng khoán do các công ty chứng khoán độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận.
Mô hình này khắc phục được hạn chế của mô hình đa năng: giảm rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán kinh doanh chuyên môn hoá, thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán.
Ngày nay với sự phát triển của thị trương chứng khoán, để tận dụng thế mạnh của lĩnh vưc tiền tệ và chứng khoán, bằng cách cho phép hình thành mô hình công ty đa năng một phần – các NHTM thành lập công ty con để chuyên kinh doanh chứng khoán.
1.1.2. Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư
a. Quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là tổ chức hoạt động theo phương thức huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu hoặc chứng chỉ của quỹ, để đầu tư vào chứng khoán và các loại tài sản tài chính khác với mục đích làm tăng giá trị tài sản của quỹ.
Thông thường các chủ thể tham gia vào hoạt động của quỹ bao gồm:
+ Công ty quản lý quỹ: thực hiện quản lý quỹ đầu tư đảm bảo phù hợp với điều kiện quỹ và làm tăng tài sản của quỹ.
+ Tổ chức quản lý tài sản của quỹ: thực hiện bảo đảm, lưu ký chứng khoán, các hợp đồng kinh tế, các chứng từ có liên quan đến tài sản quỹ.
+ Tổ chức kiểm tra, kiểm soát hoạt động của quỹ: tuỳ mô hình quỹ mà tổ chức này thường do ngân hàng hoặc Hội đồng quản trị của quỹ thực hiện với chức năng chủ yếu là kiểm tra, kiểm soát hoạt động của quỹ và công ty quản lý quỹ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư.
+ Tổ chức kiểm toán độc lập: thực hiện kiểm soát hàng năm về tài sản và hoạt động quản lý của công ty quản lý Quỹ để đảm bảo các số liệu báo cáo nhà đầu tư là chuẩn xác.
+ Tổ tư vấn luật: thực hiện tư vấn về pháp luật cho hoạt động của quỹ đồng thời giám sát, quản lý chặt chẽ nhằm giảm thiểu rủi ro và bảo vệ lợi ích cho nhà đầu tư.
- Người lưu giữ CK
Đóng vai trò là người bảo quản tài sản của quỹ đồng thời giám sát hoạt động của công ty quản lý quỹ nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. một số nước người lưu giữ CK là ngân hàng giám sát, do công ty quản lý quỹ lựa chọn. ngân hàng giám sát có trách nhiệm:
+ Tách biệt tài sản của quỹ với các tài sản khác
+ Kiểm tra giám sát công ty quản lý quỹ sao cho đảm bảo việc quản lý quỹ phù hợp với pháp luật nhà nước và điều lệ quỹ, bảo vệ nhà đầu tư.
+ Thực hiện các quyền lợi thu chi của quỹ theo đúng hướng dẫn của công ty quản lý quỹ.
+ Xác định các báo cáo do công ty quản lý quỹ tiến hành các hoạt động vị phạm pháp luật hoặc trái với điều lệ quỹ.
+ Báo cáo UBNDCKNN khi phát hiện công ty quản lý quỹ tiến hành các hoạt động vi phạm pháp luật hoặc trái với điều lệ quỹ.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trên, đòi hỏi ngân hàng giám sát phải quản lý tài sản của Quỹ tách biệt với các tài sản khác của ngân hàng, ngân hàng giám sát được hưởng phí theo quy định của tiền lệ quỹ.
- Nhà đầu tư: là người trực tiếp góp vốn vào quỹ thông qua mua chứng chỉ quỹ đầu tư. Họ có quyền hưởng lợi từ các hoạt động đầu tư của quỹ và yêu cầu công ty quản lý quỹ thực hiện việc đầu tư theo đúng điều lệ quỹ. Tuy nhiên, nhà đầu tư không được phép trực tiếp thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với tài sản của quỹ.
b. Công ty quản lý quỹ
Công ty quản lý quỹ là công ty thực hiện việc điêu hành, quản lý các quỹ đầu tư phù hợp với điều lệ quỹ và làm tăng giá trị tài sản quỹ.
Khách hàng của công ty quản lý quỹ thường là các nhà đầu tư có tổ chức: các quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính…chức năng của công ty quản lý Quỹ là thực hiện việc đầu tư theo sự uỷ thác của khách hàng sao cho phù hợp với mục tiêu đầu tư của quỹ mà khách hàng đã lựac chọn.
1.1.3. Các chủ thể khác
Ngoài các chủ thể trên, tham gia kinh doanh chứng khoán còn có các chủ thể sau:
- Công ty lưu ký và thanh toán bù trừ: là công ty thực hiện cung cấp dịch vụ lưu ký và thanh toán bù trừ cho các giao dịch trên thị trường chứng khoán.
- Ngân hàng thương mại: tham gia kinh doanh chứng khoán thông qua thực hiện các nhiệm vụ: đầu tư chứng khoán, lưu ký, thanh toán trên thị trường chứng khoán.
- Các tổ chức trung gian tài chính khác: công ty bảo hiểm, các quỹ lương hưu…các công ty này huy động vốn thông qua các nghiệp vụ kinh doanh đặc thù của nó (ví dụ: công ty bảo hiểm huy động thông qua bán hợp đồng bảo hiểm, các quỹ hưu trí vốn do các thành viên đóng góp theo định kỳ…) với số vốn huy động được các công ty này sẽ thực hiện đầu tư vào tài sản tài chính, chủ yếu là các chứng khoán. Vì vậy, trên thị trường chứng khoán các công ty này là các nhà đầu tư có tổ chức.
Quy định hiện hành của Việt Nam liên quan đến mô hình của chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
.1 Công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian, có vị trí, vai trò rất quan trọng trong thị trường chứng khoán. Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán đã chứng minh: “Một thị trường chứng khoán không thể thiếu loại chủ thể này, nó cần cho cả người phát hành, người đầu tư chứng khoán. Nó là một trong những nhân tố quyết định đến phát triển, sự sôi động của thị trường chứng khoán”. Những ảnh hưởng tác động của công ty chứng khoán đối với các chủ thể tham gia thị trường và sự vận hành của thị trường chứng khoán là rất lớn.
Công ty chứng khoán là một tên gọi chỉ một loại doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy nhiên, không phải bất kỳ chủ thể nào thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán đều là công ty chứng khoán. Chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh, dịch vụ trên thị trường chứng khoán có nhiều loại chủ thể kinh doanh khác nhau như: công ty chứngkhoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và một số chủ thể khác có cung cấp các dịch vụ có liên quan. Trong đó công ty chứng khoán là một loại chủ thể kinh doanh chủ yếu và quan trọng nhất.
Hiện nay, tại Luật chứng khoán Việt Nam không có định nghĩa về công ty chứng khoán. Tuy nhiên, qua các quy định cụ thể trong Luật chứng khoán có thể khái quát định nghĩa về công ty chứng khoán như sau:
Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH được thành lập, hoạt động theo Luật chứng khoán và các các quy định của pháp luật có liên quan để thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán dưới đây theo giấy phép do UBCKNN cấp: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán.
Đặc điểm:
Hoạt động kinh doanh chứng khoán là hoạt động thường xuyên, có tính nghề nghiệp của công ti chứng khoán
Hình thức tổ chức: công ti cổ phần hoặc công ti TNHH
UBCKNN trực tiếp quản lý giám sát
Luật chứng khoán trực tiếp điều chỉnh
Việt Nam Luật chứng khoán quy định: “Kinh doanh chứng khoán là thực hiện một trong các nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán; tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”. Tại điều 60 Luật chứng khoán Việt Nam chỉ rõ: công ty chứng khoán được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh sau đây: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán; công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán; ngoài nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán quy định tại khoản 1 Điều này công ty chứng khoán được nhận ủy thác quản lý tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân, cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính và dịch vụ tài chính khác theo quy định của Bộ tài chính”.
Đồng thời Luật chứng khoán Việt Nam có quy định cụ thể các điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán tương tự như pháp luật các nước khác.
Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán.
Công ti đầu tư chứng khoán là công ti được thành lập từ vốn góp của nhà đầu tư và sử dụng số vốn đó đầu tư chủ yếu vào chứng khoán, nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Các nhà đầu tư là cổ đông của công ti đầu tư chứng khoán. Cổ phiếu có thể được chào bán riêng lẻ hoặc chào bán ra công chúng tuỳ thuộc hình thức của công ti đầu tư chứng khoán đại chúng hay phi đại chúng, có tư cách pháp nhân, có bộ máy hoàn chỉnh; tự quản lý hoạt động đầu tư của mình. Việc huy động vốn thành lập công ti do công ti đảm nhiệm
Theo Điều 97 Luật chứng khoán đã được sửa đổi bổ sung thì công ty chứng khoán được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp để đầu tư chứng khoán và Ủy ban chứng khoán nhà nước sẽ cấp giấy phép hoạt động cho loại hình công ty này.
Công ty đầu tư chứng khoán được thực hiện các hoạt động cụ thể theo Luật chứng khoán: tuân thủ các hạn chế về đầu tư theo quy định về hạn chế đầu tư tại Điều 92 cùng Luật; các nội dung liên quan đến định giá tài sản và báo cáo tài sản quy định tại Điều 88, 89.
Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
Công ty quản lý quỹ là doanh nghiệp theo mô hình công ty cổ phần và công ty TNHH được thành lập để hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và một số hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán có những đặc điểm sau:
Được thành lập và hoạt động theo sự cho phép của UBCKNN
Hoạt động chính của công ty quản lý quỹ là hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán theo sự ủy thác của các nhà đầu tư vào quỹ hoặc sự ủy thác của các nhà đầu tư riêng lẻ. Hoạt động quản lý quỹ đầu tư bao gồm việc nắm giữ tài sản của quỹ, trực tiếp tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán từ nguồn vốn của quỹ, quản lý danh mục đầu tư của quỹ…
Nhận xét mức độ phù hợp của quy định hiện hành với cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Có thể nói Luật chứng khoán cũng đã quy định khá toàn diện về tổ chức, hoạt động của mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán trên cơ sở có kế thừa và phát triển để khắc phục những hạn chế đang tồn tại, phù với yêu cầu thực tiễn phát triển của thị trường chứng khoán trong tương lai, bảo đảm sự phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán tồn tại từ lâu. Sự ra đời của mô hình chủ thể này phù hợp với cam kết quốc tế và tình hình kinh tế xã hội ở Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, Luật chứng khoán đã quy định chi tiết các điều kiện cấp giấy phép, hồ sơ xin cấp giấy phép, trình tự và thời hạn cấp giấy phép, bổ sung giấy phép, thay đổi trong hoạt động, nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh chứng khoán, các hạn chế đối với công ty chứng khoán nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động…Luật chứng khoán được xây dựng trên nguyên tắc chi tiết đến mức tối đa có thể, nhằm bảo đảm tính thực thi, giảm bớt các văn bản hướng dẫn dưới luật.
Thứ hai, Luật đã quy định theo hướng cải cách thủ tục hành chính nhằm đơn giản hoá về mặt thủ tục và rút ngắn được thời gian thực hiện các công việc có tính thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân thực hiện đầy đủ các thủ tục của mình. Chẳng hạn, trước khi có Luật Chứng khoán việc thành lập và hoạt động của công ty chứng khoán khá phức tạp phải trải qua rất nhiều bước. Đầu tiên, tổ chức cá nhân phải làm hồ sơ xin cấp giấy phép gửi UBCKNN. Sau khi được UBCKNN chấp thuận về mặt nguyên tắc việc cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán thì tổ chức cá nhân xin cấp giấy phép phải tiến hành đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký kinh doanh, UBCKNN mới chính thức cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán cho doanh nghiệp đăng ký. Hiện nay, Giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán đồng thời có giá trị là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Về điều kiện và thủ tục cấp giấy phép, Luật chứng khoán đã quy định đơn giản, rõ ràng và thực chất hơn. Chẳng hạn về cấp giấy phép thành lập hoạt động cho công ty chứng khoán trước đây quy định 5 điều kiện, hiện nay Luật chứng khoán chỉ quy định 3 điều kiện : Một là, có trụ sở chính và trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán (đối với tổ chức xin phép chỉ thực hiện nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán thì không phải đáp ứng điều kiện về trang thiết bị); Hai là, có đủ vốn pháp định theo quy định; Ba là, Giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề chứng khoán. Về hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập hoạt động của công ty chứng khoán, trước đây quy định đến 10 loại giấy tờ khác nhau thì Luật chứng khoán quy định 8 loại giấy tờ cần thiết. Đặcbiệt hồ sơ xin cấp chứng chỉ hành nghề trước đây quy định trường hợp ít nhất cần đến 6 loại giấy tờ khác nhau thì nay Luật quy định chỉ có 3 loại giấy tờ cần thiết trong hồ sơ.
Thứ ba, riêng đối với công ty chứng khoán, luật chứng khoán quy định về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán trên nguyên tắc không phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong kinh doanh chứng khoán, đồng thời thể hiện rõ quan điểm mở cửa thị trường chứng khoán Việt Nam để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào hoạt động kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam. Đây là một trong những điểm mới có tính đột phá lớn để thị trường chứng khoán Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam thực hiện đúng cam kết quốc tế, cam kết với WTO. Cụ thể:
Trước đây nhà đầu tư nước ngoài muốn thực hiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam thì chỉ có hình thức duy nhất góp vốn liên doanh với bên Việt Nam để thành lập công ty chứng khoán liên doanh. Nhà đầu tư nước ngoài chỉ được sở hữu không quá 30% vốn điều lệ và sau này tỷ lệ sở hữu là không quá 49% vốn điều lệ. Đồng thời, bên nước ngoài tham gia góp vốn liên doanh trong công ty chứng khoán phải là tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại nước mà các tổ chức này đóng trụ sở chính.
Theo Luật chứng khoán hiện nay quy định: công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được tổ chức dưới hình thức công ty liên doanh hoặc công ty TNHH, công ty cổ phần 100% vốn nước ngoài do UBCKNN cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Về điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài thì ngoài các điều kiện giống với quy định cho công ty chứng khoán trong nước Luật còn quy định thêm điều kiện: là tổ chức kinh doanh chứng khoán đang hoạt động hợp pháp ở nước ngoài.
Thứ năm, vấn đề cấp giấy phép hành nghề chứng khoán
Một trong những điều kiện để cấp giấy phép thành lập và hoạt động