Trong quá trình tồn tại và phát triển, nhà nước luôn xây dựng một hệ thống chính sách thuế hoàn thiệnvới nhiêu sắc lệnh thuế khác nhau. Xét dưới nhiều góc độ thuế luôn chiếm vị trí quan trọng trong chính sách xã hội của nhà nước. Bên cạnh chức năng truyền thống là tạo nguônf thu cho quỹ ngân sách quốc gia, thỏa mãn chi tiêu công cộng, thuế còn là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. So với các quốc gia trên thế giới, hệ thống thuế của Việt Nam tương đối hoàn chỉnh, mỗi loại thuế ra đời vào những thời điểm khác nhau của quá trình phát triển nền kinh tế xã hội và phụ thuộc vào mục đích của nhà nước trong việc áp dụng chính sách thuế đó.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập nền kinh tế vai trò của thuế lại càng được khẳng định đặc biệt là thuế thu nhập. Năm 1900, Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao nhằm điều tiết một phần thu nhập của những cá nhân có thu nhập cao hơn mặt bằng chung của xã hội. Để chính sách này trở thành một sắc lệnh thuế hiện đại, có tính cạnh tranh pháp lệnh thuế thu nhập cao đã được sửa đổi nhiều lần.
Tuy nhiên trước sự vận động không ngừng của nền kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, hệ thống thuế nói chung và thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao nói riêng đã bộc lộ một số nhược điểm. Để đáp ứng được yêu cầu của điều kiện mới thì Quốc hội đã thảo luận và thông qua luật Thuế thu nhập và sẽ có hiệu lực vào ngày 1/1/20009
Vậy để hiểu sâu sắc về luật thuế mới này về những điểm mới so với pháp lệnh thuế trước đây nhóm chúng em chọn đề tài “Phân tích và làm sáng tỏ những ưu điểm chủ yếu của luật thuế thu nhập cá nhân so vs Pháp lệnh thuế thu nhập đối vs ng có thu nhập cao”
Trong quá trình làm bài không tránh khỏi những sai sót, chúng em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô
23 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4969 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bình luận những ưu điểm chủ yếu của luật thuế thu nhập cá nhân so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong quá trình tồn tại và phát triển, nhà nước luôn xây dựng một hệ thống chính sách thuế hoàn thiệnvới nhiêu sắc lệnh thuế khác nhau. Xét dưới nhiều góc độ thuế luôn chiếm vị trí quan trọng trong chính sách xã hội của nhà nước. Bên cạnh chức năng truyền thống là tạo nguônf thu cho quỹ ngân sách quốc gia, thỏa mãn chi tiêu công cộng, thuế còn là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. So với các quốc gia trên thế giới, hệ thống thuế của Việt Nam tương đối hoàn chỉnh, mỗi loại thuế ra đời vào những thời điểm khác nhau của quá trình phát triển nền kinh tế xã hội và phụ thuộc vào mục đích của nhà nước trong việc áp dụng chính sách thuế đó.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập nền kinh tế vai trò của thuế lại càng được khẳng định đặc biệt là thuế thu nhập. Năm 1900, Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao nhằm điều tiết một phần thu nhập của những cá nhân có thu nhập cao hơn mặt bằng chung của xã hội. Để chính sách này trở thành một sắc lệnh thuế hiện đại, có tính cạnh tranh pháp lệnh thuế thu nhập cao đã được sửa đổi nhiều lần.
Tuy nhiên trước sự vận động không ngừng của nền kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, hệ thống thuế nói chung và thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao nói riêng đã bộc lộ một số nhược điểm. Để đáp ứng được yêu cầu của điều kiện mới thì Quốc hội đã thảo luận và thông qua luật Thuế thu nhập và sẽ có hiệu lực vào ngày 1/1/20009
Vậy để hiểu sâu sắc về luật thuế mới này về những điểm mới so với pháp lệnh thuế trước đây nhóm chúng em chọn đề tài “Phân tích và làm sáng tỏ những ưu điểm chủ yếu của luật thuế thu nhập cá nhân so vs Pháp lệnh thuế thu nhập đối vs ng có thu nhập cao”
Trong quá trình làm bài không tránh khỏi những sai sót, chúng em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN:
Cơ sở ra đời của thuế thu nhập cá nhân:
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là tên gọi để chỉ những sắc thuế lấy thu nhập làm đối tượng tính thuế. Trong hệ thống thuế của các nước, thuế TNCN là một loại thuế quan trọng được áp dụng phổ biến ở các nước, đặc biệt ở những nước có nền kinh tế phát triển. Sự ra đời của thuế TNCN bắt nguồn từ các lý do sau:
Thứ nhất, đáp ứng được nhu cầu tài chính của nhà nước. Trong quá trình tồn tại và phát triển để đảm bảo sức mạnh của bộ máy nhà nước và đáp ứng được nhu cầu chi tiêu của nhà nước thì cần phải có sự đóng góp của toàn dân. Sự đóng góp của cá nhân có thể là thuế, phí và lệ phí. Với xu thế phát triển của nền kinh tế thu nhập của cá nhân ngày càng tăng cao, Nhà nước huy động nguồn tài chính to lớn từ việc đóng góp của cá nhân thông qua thuế thu nhập.
Thứ hai, bắt nguồn từ nhu cầu tái phân phối thu nhập và đảm bảo công bằng cho cư dân sống trong xã hội. Trong nền kinh tế tập trung, thu nhập của người dân khá thuần nhất nên không có sự phân biệt đáng kể về thu nhập và phân cực giàu nghèo. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, phân phối thu nhập chủ yếu theo cơ chế thị trường, ai chiếm ưu thế về khả năng, chất lượng lao động, vốn và tư liệu sản xuất người đó sẽ có thu nhập cao. Vì vậy, thu nhập của các cá nhân trong xã hội có sự phân biệt rõ rệt, phân hóa giàu nghèo ngày càng nhanh. Để đảm bảo công bằng xã hội trong quá trình thực hiện chức năng của mình, Nhà nước sử dụng thuế thu nhập như một công cụ hữu hiệu trong việc tái phân phối thu nhập.
Thứ ba, thuế TNCN là công cụ để nhà nước quản lý và điều tiết nền kinh tế của đất nước. Trong quá trình phát triển nền kinh tế, Nhà nước thường sử dụng nhiều công cụ khác nhau để điều tiết và quản lý nền kinh tế xã hội. Thuế TNCN là công cụ để nhà nước thực hiện chức năng đó. Thuế TNCN cũng là một chỉ tiêu quan trọng quy định về vấn đề tích lũy, đầu tư, tiết kiệm, phân bổ nguồn lực. Thông qua việc đánh thuế vào thu nhập mà nhà nước có thể điều tiết hoạt động kinh tế xã hội.
Khái niệm, đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân:
Thuế TNCN có một số đặc điểm chung và một số đặc điểm riêng.
Đặc điểm chung gồm một số những đặc điểm sau:
Thuế thu nhập là thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế phát sinh theo từng lần hoặc theo một khoảng thời gian nhất định. Như vậy có thể hiểu thuế TNCN có đối tượng đánh thuế là thu nhập.
Tuy nhiên hiểu thế nào là “thu nhập” hiện nay chưa có cách hiểu chính thức và có rất nhiều cách hiểu khác nhau cũng có thể hiểu “ thu nhập” là tổng giá trị tài sản và của cải được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ mà cá nhân nào đó trong nền kinh tế xã hội tạo ra và nhận được từ các nguồn lao động, tài sản hay đầu tư thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong một khoảng thời gian nhất định(thường là một năm).
Thông thường các nhà nghiên cứu kinh tế, pháp lý không đưa ra khái niệm cụ thể về thu nhập mà họ thường liệt kê những thu nhập phải chịu thuế.Trong nền kinh tế thị trường , các khoản thu nhập rất đa dạng. Nếu căn cứ vào nguồn tạo ra thu nhập có thu nhập tạo ra từ lao động có thu nhập tạo ra từ kinh doanh, thu nhập từ tài sản, thu nhập từ hoạt động đầu tư… và các khoản thu nhập khác. Nếu căn cứ vào tính đều đặn của có thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Nếu căn cứ theo phạm vi lãnh thổ phát sinh có thu nhập phát sinh trong nước và thu nhập phát sinh ở nước ngoài…
Thuế TNCN có đối tượng đánh thuế là thu nhập đã phát sinh thực tế. Tuy nhiên, không phải thu nhập nào cũng là đối tượng của thuế thu nhập mà chỉ những thu nhập thỏa mãn những điều kiện nhất định mới trở thành đối tượng chịu thuế. Vì thế một trong những nội dung quan trọng của chính sách thu nhập là phải xác định đối tượng chịu thuế. Thông thường thu nhập chịu thuế phải là thu nhập hợp pháp, đã thực tế phát sinh có tính phổ biến và Nhà nước có thể kiểm soát được. Tuy nhiên khi đi vào cụ thể chính sách thuế ở mỗi quốc gia, thu nhập chịu thuế có những quy định riêng tùy theo hoàn cảnh kinh tế và quan điểm đánh thuế của nhà nước nhất là chi phí được khấu trừ trước khi đánh thuế.
Ngoài mục tiêu tạo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước thuế thu nhập còn mục tiêu điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tái phân phối thu nhập xã hội, kích thích tiêu dùng hoặc đầu tư.
Có tính ổn định không cao việc quản lý thuế, thu thuế tương đối khó khăn, chi phí quản lý và thu thuế thường lớn hơn so với loại thuế khác. Đối với thuế thu nhập ngoài việc xác định thu nhập chịu thuế còn phải xác định thời điểm phát sinh thu nhập, nguồn gốc, địa điểm, thời hạn cư trú của đối tượng nộp thuế và các khoản chi phí được trừ trước khi tính thuế.
Luật điều chỉnh quan hệ thuế TNCN bao gồm luật quốc gia và luật quốc tế. Thu nhập có thể phát sinh trên lãnh thổ quốc gia hay ngoài lãnh thổ, đối tượng nộp thuế có thể là công dân của quốc gia sở tại hay người nước ngoài. Thuế TNCN có thể được điều chỉnh bởi hiệp định đánh thuế hai lần.
Đặc điểm riêng:
Có diện đánh thuế rộng là tất cả các nguồn thu nhập chịu thuế. Về nguyên tắc tất cả các khoản thu nhập dù là tiền lương hay hiện vật không phân biệt nguồn là từ sản xuất kinh doanh hay từ lao động, đầu tư đều có thể được xếp vào thu nhập chịu thuế sau khi đã loại bỏ các khoản thu nhập không phải chịu thuế.
Thuế TNCN luôn gắn liền với chính sách kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Do thuế TNCN là một loại thuế trực thu, tác động trực tiếp vào thu nhập cá nhân là tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Để thuế thu nhập đạt được hiệu quả cao trong quá trình áp dụng phải đảm bảo cân bằng lợi ích giữa người nộp thuế và nhà nước phụ thuộc vào chính sách xã hội của mỗi quốc gia khác nhau mà nội dung thuế thu nhập được quy định khác nhau.
Vai trò của thuế thu nhập cá nhân:
Thuế TNCN là loại thuế trực tiếp vào thu nhập phát sinh thực tế. Có các loại thuế thu nhập: thu nhập công ty, thu nhập cá nhân.Trong hệ thống thuế, mặc dù ra đời sau các loại thuế khác nhưng thuế thu nhập đã khẳng định vai trò quan trọng:
Thứ nhất, đây là công cụ quan trọng trong việc tái phân phối lại thu nhập đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường thu nhập được phối hợp chủ yếu thông qua cơ chế thị trường.
Thứ hai, thuế thu nhập có vai trò tạo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước, đảm bảo các khoản chi tiêu công cộng.
Thứ ba, thông qua thuế thu nhập Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô kích thích tiêu dùng hoặc khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế. Điều đó thể hiện ở những quy định về ưu đãi, miễn giảm thuế thu nhập…
Sự cần thiết phải ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân:
Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân là thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tài chính.
Thuế và Nhà nước là hai phạm trù lịch sử luôn đi cùng nhau, chi phối phụ thuộc nhau. Vì vậy, thuế vừa được hiểu là công cụ kỹ thuật hỗ trợ cho sự tồn tại của Nhà nước mà Bộ máy nhà nước; Mặt khác thuế lại được Nhà nước sử dụng như là công cụ để thực hiện những nhiệm vụ mục đích nhất định. Xuất phát từ nhu cầu đó, Nghị quyết Đại hội Đảng IX và X đã xác định "Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển" và “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ... Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập”. Cụ thể hoá nghị quyết đại hội Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, trong đó đặt ra yêu cầu: “Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỷ trọng các nguồn thu trong nuớc cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ lệ thu từ thuế trực thu”.
Ban hành Luật thuế TNCN nhằm tăng cường công tác kiểm soát, phân phối thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội.
Thuế TNCN là loại thuế trực thu trong hệ thống chính sách thuế. Đối tượng của loại thuế này là thu nhập của những người có thu nhập cao trong xã hội nhằm thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Thu nhập của cá nhân hay tổ chức hay của quốc gia là chỉ tiêu quan trọng quyết định vấn đề tích luỹ đầu tư, tiết kiệm, tiêu dùng đến vấn đề phân bổ nguồn lực trong xã hội. Thông qua việc đánh thuế vào thu nhập với những cách thức khác nhau. Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết của mình.
Thuế TNCN được xây dựng trên các nguyên tắc "lợi ích", "công bằng" và "khả năng nộp thuế". Theo nguyên tắc lợi ích thì mọi người trong xã hội đều được hưởng những thành quả phát triển của đất nước về thể chế luật pháp, cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, an ninh trật tự ... đồng thời cũng có nghĩa vụ đóng góp một phần thu nhập của mình cho xã hội thông qua việc nộp thuế. Nguyên tắc "công bằng" và “ khả năng nộp thuế” thể hiện ở chỗ: người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn, người có thu nhập thấp chưa phải nộp thuế. Thời gian qua ở nước ta, khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao và nhóm người có thu nhập thấp cũng có xu hướng ngày càng tăng (trong thời gian từ năm 1993 đến năm 2004, khoảng cách này đã tăng từ 3,7 lần lên đến 13,5 lần). Như vậy, việc áp dụng thuế TNCN sẽ góp phần đảm bảo tính hợp lý, công bằng, hiệu quả của hệ thống chính sách thuế và hạn chế sự gia tăng khoảng cách chênh lệch giầu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời Nhà nước sẽ nắm được thông tin về thu nhập của cá nhân góp phần phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới.
Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, hệ thống chính sách thuế đã được hình thành và từng bước hoàn thiện qua hai lần cải cách (năm 1990 và năm 1995). Việc ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân đã được đặt ra từ trước đây, nhưng xét thấy chưa đủ điều kiện, vì trong giai đoạn đầu chuyển đổi nền kinh tế, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa phát triển, các thị trường đang trong quá trình hình thành, thu nhập dân cư nhìn chung còn thấp và chưa đa dạng (chủ yếu là tiền lương, tiền công). Trong bối cảnh đó, Nhà nước đã sử dụng 3 sắc thuế để động viên cho phù hợp với từng loại thu nhập: đối với thu nhập của cá nhân kinh doanh áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp; đối với người có thu nhập từ tiền lương tiền công cao hơn mức bình quân xã hội áp dụng Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; đối với người chuyển quyền sử dụng đất, áp dụng Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất. Áp dụng chính sách thuế như nói trên trong thời gian qua là phù hợp, nên đã phát huy tác dụng trong quản lý và thu ngân sách.
Trong những năm tới, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (giai đoạn 2006 – 2010), các thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có cơ hội đầu tư, sản xuất kinh doanh, có thêm nhiều nguồn thu nhập khác nhau: thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công, từ dịch vụ và đầu tư tài chính… Bên cạnh đó, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, số người nước ngoài đến làm ăn sinh sống tại Việt Nam và số người Việt Nam có thu nhập từ nước ngoài cũng sẽ tăng lên.
Trước tình hình trên, chính sách thuế hiện hành đối với thu nhập của cá nhân đã bộc lộ một số hạn chế: chưa thực sự đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế vì cùng là thu nhập của cá nhân nhưng thu nhập từ kinh doanh thì không được trừ khởi điểm và nộp thuế theo mức 28%, trong khi thu nhập từ tiền công, tiền lương trên mức khởi điểm 5 Tr.đ/tháng mới phải nộp thuế và áp dụng thuế suất luỹ tiến từng phần từ 10% đến 40%; còn áp dụng biểu thuế khác nhau giữa người Việt Nam và người nước ngoài, người Việt Nam phải nộp thuế cao hơn người nước ngoài. Chính sách thuế hiện hành cũng chưa phù hợp với thông lệ quốc tế: chưa có một chính sách thuế điều tiết thống nhất đối với thu nhập của cá nhân. Việc duy trì các chính sách thuế hiện hành đối với thu nhập của cá nhân sẽ hạn chế việc khuyến khích cá nhân tích cực lao động, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng.
Để đảm bảo phát triển kinh tế xã hội ổn định, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, việc tiếp tục hoàn thiện các chính sách tài chính trong đó hệ thống chính sách thuế nói chung, thuế thu nhập cá nhân nói riêng là hết sức cần thiết, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phân bổ nguồn lực đồng thời giải quyết tốt các mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, giữa tăng trưởng với công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo.
Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm đảm bảo ổn định nguồn lực cho ngân sách nhà nước.
Thuế TNCN đóng góp một phần thu lớn cho ngân sách nhà nước nhằm ổn định nguồn thu, đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước để giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế…
Thuế TNCN được ban hành có những quy định rõ hơn về đối tượng nộp thuế đã góp phần dẫn đến cơ cấu thu ngân sách nhà nước cũng thay đổi theo hướng nguồn thu từ tích luỹ trong nước được tăng dần và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong ngân sách nhà nước. Thuế TNCN cũng sẽ góp phần nâng cao tỷ trọng thu nội địa để ổn định thu cho ngân sách nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Những điểm mới của Thuế thu nhập cá nhân:
Đối tượng nộp thuế:
Theo Điều 2 Luật thuế TNCN 2007 thì: “Đối tượng nộp thuế TNCN là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong lãnh thổ và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam”. Với quy định này thì đối tượng nộp thuế có các điểm mới sau:
Bổ sung và quy định rõ hơn các đối tượng sau thuộc diện nộp thuế TNCN:
Chuyển cá nhân, hộ kinh doanh có thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; cá nhân hành nghề độc lập; cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng vốn hiện đang nộp thuế TNDN theo Luật thuế TNDN 2003 sang nộp thuế TNCN. Đây là một điểm mới cơ bản nhất. Quy định này nhằm đảm bảo tính công bằng trong điều tiết thu nhập bởi đã là cá nhân có thu nhập chịu thuế thì dù thu nhập từ bất kỳ nguồn nào cũng đều được đối xử như nhau, tức là đều chịu thuế TNCN thông qua việc áp dụng chung biểu thuế và cùng được giảm trừ gia cảnh đồng thời góp phần tăng thêm nguồn thu cho NSNN.
Trước đây nếu thu thuế theo thuế TNDN 2003 và PL thì không thể hiện sự công bằng giữa cá nhân kinh doanh và cá nhân không kinh doanh (ví dụ: A sản xuất kinh doanh thu nhập 10 triệu/tháng sau khi trừ chi phí hợp lý A nộp thuế : 10 × 28% = 2 triệu 8; trong khi đó B thu nhập từ lương 10 triệu/tháng, B nộp thuế tính theo PL: (10 – 5) × 10% = 500.000; còn nếu tính theo Luật thuế TNCN thì số thuế cả A, B phải nộp là 750.000 ); không công bằng giữa cá nhân không kinh doanh trên ngưỡng chịu thuế suất cao nhất (40%) và cá nhân kinh doanh có thu nhập cao (ví dụ: C, D cùng có thu nhập 100 triệu/tháng nhưng A nộp thuế theo PL thì sẽ phải nộp 31,5 triệu; B là kinh doanh sau khi trừ chi phí thì số thuế nộp là 28 triệu ); không công bằng giữa hộ kinh doanh nhỏ với các doanh nghiệp thường là những đơn vị kinh doanh có quy mô lớn vì Luật thuế TNDN 2003 áp dụng thuế suất chung cho đối tượng nộp thuế, việc áp dụng này là quá cao đối với hộ cá nhân kinh doanh. Do đó việc chuyển các đối tượng trên sang nộp thuế TNCN là phù hợp.
Chuyển cá nhân có thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất (CQSDĐ) hiện đang nộp thuế CQSDĐ theo Luật thuế CQSDĐ 1994 sang nộp thuế TNCN. Trong điều kiện hiện nay những giao dịch về bất động sản mang lại nguồn thu nhập rất lớn cho cá nhân mà theo luật thuế hiện hành họ chỉ phải đóng thuế suất CQSDĐ tính trên giá đất. Vì thế đã làm mất đi một nguồn thu cho NSNN và bất bình đẳng giữa cá nhân không kinh doanh và cá nhân kinh doanh vì cá nhân kinh doanh chịu sự điều chỉnh của thuế TNDN 2003 sẽ phải nộp thuế cho thu nhập từ việc CQSDĐ với thuế suất 28% trong khi đó cá nhân không kinh doanh chỉ nộp thuế CQSDĐ với thuế suất 2% hoặc 4% tuỳ loại đất. Như vậy, cùng với điểm mới trên thì thu nhập từ CQSDĐ được quy định chung trong thuế TNCN do đó sẽ không còn sự bất bình đẳng giữa cá nhân phải nộp loại thuế này và tránh thất thu NSNN.
Bổ sung đối tượng cá nhân có thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng bất động sản khác trừ thu nhập từ CQSDĐ đã nói trên, nhượng quyền thương mại, thu nhập thừa kế, quà tặng trước đây chưa có chính sách động viên hoặc được miễn nộp thuế TNCN. Trong điều kiện hội nhập kinh tế đồng thời Việt Nam đang trong quá trình thực hiện lộ trình cắt giảm thuế theo các cam kết quốc tế và khu vực. Do đó, nguồn thu NSNN sẽ bị giảm đi do thu từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm theo nên nguồn thu trong nước phải được tăng dần lên (trong đó có thuế TNCN) nhằm tăng thu NSNN. Bên cạnh đó, việc bổ sung này cũng nhằm sử dụng, quản lý việc khai thác tài nguyên thiên nhiên hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả hơn.
Định nghĩa rõ hơn đối tượng cư trú (đối tượng phải nộp thuế TNCN cho Việt Nam đối với toàn bộ thu nhập, kể cả thu nhập phát sinh ở Việt Nam và nước ngoài). Trước đây, đối tượng cư trú chỉ là cá nhân có mặt ở Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ khi đến Việt Nam thì Luật thuế TNCN đã bổ sung thêm một điều kiện nữa được coi là cư trú ở Việt Nam, đó là: “cá nhân có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở lại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn”. Với bổ sung này thì việc xác định đối tượng nộp thuế được thuận lợi hơn, bao quát hết đối tượng nộp thuế và mở rộng đối tượng nộp thuế một cách hợp lý nhằm tăng nguồn thu cho NSNN.
Thu nhập chịu thuế:
Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thu nhập được phân chia thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Tuy nhiên, Pháp lệnh không định nghĩa rõ thế nào là thu nhập thường xuyên, thế nào là thu nhập không thường xuyên. Do vậy, trong thực tế, việc tính thuế gặp khá nhiều khó khăn, đồng thời, việc tính thuế đối với t