Một nhà nước dù tồn tại trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử đều luôn cố gắng hoàn thành được sứ mạng lịch sử của nó.Nhà nước ta cũng như vậy, và để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao thì nhà nước cần có những công cụ riêng của mình.Một trong những công cụ đắc lực giúp Nhà nước đó chính là ngân sách Nhà nước.Trong những năm qua thì vai trò của ngân sách Nhà nước đã được thể hiện rõ trong việc giúp Nhà nước hình thành các quan hệ thị trường góp phần kiểm soát lạm phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp để từ đó làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế.Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đó thì việc sử dụng ngân sách Nhà nước chưa đúng cách, đúng lúc, tình trạng bao cấp tràn lan, sự yếu kém trong việc quản lí thu chi ngân sách đã đặt ra cho chúng ta cần có cái nhìn sâu hơn về tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước.ảnh hưởng của bội chi ngân sách Nhà nước đến các hoạt động kinh tế-xã hội là hết sức rộng lớn.
Vậy thế nào là bội chi ngân sách Nhà nước? có những nhân tố nào ảnh hưởng đến bội chi? thực trạng và các biện pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước ở nước ta hiện nay như thế nào?.Trong thời gian tới để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế cao và ổn định thì liệu nước ta có chấp nhận một mức bội chi ở mức cao hay không? Tất cả những vấn đề nói trên đã và đang đặt ra nhiều đòi hỏi đối với các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách để có thể tìm ra những nguyên nhân và các biện pháp xử lí tình hình bội chi ngân sách Nhà nước.Trong phạm vi của một đề án môn học với đề tài "Bội chi ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp" em xin đề cập đến một số mục tiêu như sau: khái quát hoá những vấn đề cơ bản về bội chi ngân sách Nhà nước, chỉ ra những bất cập về cân đối và bội chi ngân sách Nhà nước ở nước ta hiện nay và đề xuất những kiến nghị giải pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước.Dựa trên cơ sở đó kết cấu của đề án bao gồm có 3 chương.
26 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6558 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bội chi ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Một nhà nước dù tồn tại trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử đều luôn cố gắng hoàn thành được sứ mạng lịch sử của nó.Nhà nước ta cũng như vậy, và để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao thì nhà nước cần có những công cụ riêng của mình.Một trong những công cụ đắc lực giúp Nhà nước đó chính là ngân sách Nhà nước.Trong những năm qua thì vai trò của ngân sách Nhà nước đã được thể hiện rõ trong việc giúp Nhà nước hình thành các quan hệ thị trường góp phần kiểm soát lạm phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp để từ đó làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế.Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đó thì việc sử dụng ngân sách Nhà nước chưa đúng cách, đúng lúc, tình trạng bao cấp tràn lan, sự yếu kém trong việc quản lí thu chi ngân sách đã đặt ra cho chúng ta cần có cái nhìn sâu hơn về tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước.ảnh hưởng của bội chi ngân sách Nhà nước đến các hoạt động kinh tế-xã hội là hết sức rộng lớn.
Vậy thế nào là bội chi ngân sách Nhà nước? có những nhân tố nào ảnh hưởng đến bội chi? thực trạng và các biện pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước ở nước ta hiện nay như thế nào?.Trong thời gian tới để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế cao và ổn định thì liệu nước ta có chấp nhận một mức bội chi ở mức cao hay không? Tất cả những vấn đề nói trên đã và đang đặt ra nhiều đòi hỏi đối với các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách để có thể tìm ra những nguyên nhân và các biện pháp xử lí tình hình bội chi ngân sách Nhà nước.Trong phạm vi của một đề án môn học với đề tài "Bội chi ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp" em xin đề cập đến một số mục tiêu như sau: khái quát hoá những vấn đề cơ bản về bội chi ngân sách Nhà nước, chỉ ra những bất cập về cân đối và bội chi ngân sách Nhà nước ở nước ta hiện nay và đề xuất những kiến nghị giải pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước.Dựa trên cơ sở đó kết cấu của đề án bao gồm có 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lí luận về bội chi ngân sách Nhà nước
Chương 2: Thực trạng bội chi ngân sách Nhà nước
Chương 3: Các biện pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1: Quan điểm về bội chi ngân sách Nhà nước
Bội chi và thâm hụt là hai cách gọi khác nhau của cùng một hiện tượng khi tổng nguồn thu không đủ trang trải tổng các nhiệm chi của một Chính phủ, một địa phương, một đơn vị trong một thời kì nhất định(thường là một năm).Khi nói đến bội chi ngân sách Nhà nước tức là các khoản chênh lệch thiếu giữa tổng các nguồn thu so với tổng các khoản chi của ngân sách Nhà nước trong một năm.Tuy nhiên vấn đề quy định các khoản thu, chi ngân sách Nhà nước để xác định bội chi ở mỗi quốc gia thường không hoàn toàn giống nhau.
Cách tính chi ở Việt Nam bao gồm cả chi nợ gốc và lãi, không bao gồm các khoản vay về cho vay lại.Còn theo thông lệ quốc tế thì chi chỉ bao gồm các khoản trả nợ lãi chứ không bao gồm trả nợ gốc.Do đó điều quan trọng trong quản lí bội chi không phải là sự tính toán đơn thuần là lấy tổng thu trừ đi tổng chi mà phải xác định hợp lí và quy định hợp pháp những khoản tiền nào được tính vào tổng thu, những khoản nào được tính vào tổng chi của ngân sách Nhà nước trong từng năm.
1.2: Những nhân tố ảnh hưởng đến bội chi ngân sách Nhà nước
Trong lịch sử phát triển nền tài chính thì bội chi ngân sách đã và đang trở thành một hiện tượng khá phổ biến ở các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển.nếu như chúng ta không tìm ra được những nguyên nhân chính xác gây ra hiện tượng trên thì khó có thể có được những biện pháp hữu hiệu để mà kịp thời dự báo và hạn chế tác động của nó tới nền kinh tế.Người ta đã tổng hợp lại và đưa ra năm nhóm nguyên chính gây ra hiện tượng bội chi ngân sách Nhà nước.
1.2.1: Bản chất, chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Nhà nước
Ngay từ khi ra đời thì Nhà nước đã mang trong mình những trọng trách nhất định.Mỗi một Nhà nước có thể chế, đường lối, chính sách khác nhau nhằm phục vụ cho những đối tượng khác nhau.Nhưng mục tiêu quan trọng của Nhà nước là làm cho kinh tế của đất nước ngày càng phát triển, nâng cao vị thế của đất nước mình trên trường quốc tế.Để thực hiện được điều đó thì Nhà nước đã đề ra hàng loạt những biện pháp, chính sách quan trọng.Đất nước tiến hành công cuộc cải cách kinh tế từ một nước lạc hậu với một xuất phát điểm rất thấp, nền kinh tế còn mang nặng tính bao cấp, trì trệ, người dân chủ yếu sống bằng nghề nông, thu nhập còn rất thấp.Bên cạnh đó cỏ sở vật chất, trình độ khoa học kĩ thuật, công nghệ của ta còn rất lạc hậu so với thế giới.Chính vì lẽ đó mà Nhà nước ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế-xã hội.Nhưng quá trình đó không phảihoàn thành trong thời gian ngắn mà nó đòi hỏi chúng ta cần có lượng vốn rất lớn, đây là một trong những điêu kiện tiên quyết và rất quan trọng mà chúng ta cần phải có để hoàn thành những mục tiêu đã đề ra.Trong quá trình tiến hành việc thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước chúng ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng.Ngân sách Nhà nước không ngừng được mở rộng cả về chất lượng và số lượng góp phần quan trọng để chúng ta tiến hành xây dựng và phát triển đất nước.Tuy nhiên bên cạnh những mặt đã đạt được thì chúng ta cũng mắc phải không ít sai lầm trong quản lí thu chi ngân sách gây ra tình trạng thâm hụt ngân sách khá nghiêm trọng trong những năm qua.Việc bao cấp tràn lan, đầu tư dàn trải không có hiệu qu ả, thêm vào đó là năng lực quản lí quản lí ngân sách còn nhiều bất cập, chưa thực sự minh bạch và khoa học là những nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng thu không đủ chi, rất nhiều công trình xậy dựng xong không thể sử dụng được gây lãng phí rat nhiều tiền của Nhà nước và nhân dân.Chính vì vậy mà đòi hỏi Nhà nước ta cần phải có những biện pháp thực sự hiệu quả trong quản lí thu chi ngân sách để từ đó hạn chế rồi dần dần tiến tới xoá bỏ tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước.
1.2.2: Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội
Mục tiêu chủ yếu trong đường lối phát triển kinh tế ở nước ta là làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.Và để đạt được mục tiêu tốt đẹp ấy thì Nhà nước ta đã thực thi rất nhiều biện pháp quan trọng.Một trong những chính sách ấy là tiến hành xây dựng rất nhiều công trình công cộng phục vụ nhu cầu đời sống của nhân dân nh ư: điện, đường, trường, trạm… đây là những công trình hết sức thiết thực và cần thiết nhưng để xây dựng được thì chúng ta cần phải có một lượng vốn lớn.Trong những năm đầu của quá trình cải cách mở cửa thì việc huy động vốn của nước ta gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại, chính vì lẽ đó mà ta luôn lâm vào tình trạng thu không đủ chi.Ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt thường xuyên, điều này về lâu về dài sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến nên kinh tế đất nước.Nếu như chúng ta có những biện pháp thu hút thêm nhiều nguồn vốn hơn nữa cả ở trong và ngoài nước, tiến hành việc xây dựng một cách có trọng điểm, chật lượng, tiết kiệm, hiệu quả đồng thời quản lí nguồn ngân quỹ một cách chặt chẽ, khoa học.điều đó sẽ tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, mở rộng khả năng thu, chi cho ngân sách, giảm thiểu một cách tối đa tình trạng thâm hụt ngân sách.
1.2.3: Mục tiêu, quan điểm chiến lược tài chính tiền tệ
Có thể nói chính sách tài chính quốc gia là một trong những chính sách quan trọng nhất có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định, phát triển của nền kinh tế đất nước nói chung và bội chi ngân sách Nhà nước nói riêng. Bằng việc cải tổ cơ bản chính sách tài chính, cơ cấu thu chi ngân sách, chính sách thuế để tiến tới kiểmsoát lạm phát, ổn định giá cả, sức mua của đồng tiền, ổn định tình hình kinh tế xã hội.Ngoài ra chính sách tài chính còn góp phần tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân.Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, nguồn tài chính còn hạn hẹp do đó mà chúng ta cần phải thận trong việc lựa chọn các hình thức tài chính thích hợp, quản lí chặt chẽ nguồn tài chính quý giá, kiên quyết chống mọi chủ trương bảo thủ trì trệ, vô chính phủ, buông trôi quản lí tài chính, gây thất thoát tiền của đất nước.
Trên cơ sở những mục tiêu đó thì chúng ta cần phải xây dựng chính sách tài chính dựa trên những quan điểm sau:
+Tập trung chuyển hướng tư nền tài chính”động viên, tập trung”sang nền tài chính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
+Thực hiện cơ chế tài chính lành mạnh, không đơn thuần coi cân bằng ngân sách là mục tiêu của chính sách tài chính.Một ngân sách thiếu hụt hay dư thừa không phải là kém quan trọng so với một ngân sách cân bằng và đều là những công cụ tài chính thích ứng với từng hoàn cảnh cụ thể mà Nhà nước có thể sử dụng để tác động đến quy mô và phương pháp phát triển kinh tế-xã hội (kích thích hay hạn chế tăng trưởng…)Chẳng hạn như việc duy trì một ngân sách thiếu hụt”vừa phải”có thể là nguy cơ lạm phát, nhưng lại tạo điều kiện tăng tích tụ cho các cơ sơ kinh tế, tăng cầu cho người tiêu dùng trên cơ sở đó kích thích đầu tư phát triển, tạo công ăn việc làm, mở rộng thị trường tiêu thụ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
+Để phân phối và sử dụng các nguồn tài chính có hiệu quả thì chính sách tài chính cần xác định rõ các mục tiêu ưu tiên phát triển, đảm bảo khả năng trả nợ, thu hút thêm vốn mới hơn nữa.
+Việc xây dựng và thực hiện chính sách tài chính cần đứng trên quan điểm hệ thống, đặt trong mối quan hệ và đổi mới các chính sách, công cụ khác nh ư: chính sách ngoại hối, chính sách lãi suất…nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, tránh tình trạng chồng chéo, triệt tiêu lẫn nhau.
+Qúa trình xây dựng và phát triển chính sách tài chính ở nước ta còn đang trong tình trạng thiếu kiến thức đầy đủ và kinh nghiệm quản lí tài chính còn yếu.Do đó chúng ta cần phải ra sức học tập, đúc rút kinh nghiệm của những nước khác và cả trong quá trình tiến hành thực hiện.Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tài chính, đảm bảo cân đôi giữa thu và chi, tiến tới một nền tài chính vững mạnh.
1.2.4: Xu hướng diễn biến tình hình kinh tế
Tình hình kinh tế cũng có những ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đến quá trinh thu chi ngân sách Nhà nước.Nền kinh tế nước ta trong nhưng năm qua đã và đang có nhưng chuyển biến hết sức to lớn và tích cực.Kinh tế tăng trưởng hàng năm thuộc vào hàng cao trên thế giới, thu ngân sách đạt khá, chúng ta đã thu hút được khá lớn nguồn vốn trong dân chúng thông qua việc thu thuế, phát hành trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng tổ quốc…đồng thời một lượng vốn đầu tư nước ngoài đang ngày tăng trong những năm gần đây, bên cạnh đó thì ta cũng đã tranh thủ được những sự trợ giúp quý báu của các tổ chức tài chính quốc tế thông qua viện trợ ODA.chính những yếu tố đó đã góp một phần đáng kể trong việc cân đối cán cân thu chi ngân sách Nhà nước, giảm thiểu tình trạng thâm hụt ngân sách.
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra quá trình hội nhập kinh tế hết sức nhanh chóng, quá trình toàn cầu hoá đang phát triển mạnh mẽ, khoa học công nghệ, các kỹ thuật hiện đại không ngừng được phát minh sáng chế, sự hợp tác cũng như sự cạnh tranh đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, điều đó đòi hỏi chúng ta cần phải có những chính sách tranh thủ được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, thu hút thêm nữa những nguồn vốn đầu t ư, viện trợ từ nước ngoài để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước, đồng thời bên cạnh đó thì chúng ta cũng cần phải phát huy nội lực của bản thân mình, không để đối tác họ có cơ hội chèn ép, gây khó khăn cho ta.Có như vậy thì chúng ta mới có thể làm chủ được nguồn tài chính cuả mình, phát huy hiệu quả tối đa của hệ thống tài chính nước nhà.
1.2.5: Những nhân tố kĩ thuật, chuyên môn ảnh hưởng đến cách xác định mức bội chi ngân sách Nhà nước
Những tác động của bội chi ngân sách đến nền kinh tế là rất to lớn, nhưng để xác định được một mức bội chi chính xác không phải là một điều dễ dàng.Sau khi tham khảo các tiêu thức quốc tế, căn cứ vào quan hệ biện chứng giữa thâm hụt ngân sách Nhà nước vợi nợ Nhà nước và quan niệm về ổn định tỷ suất nợ đề tài đã đưa ra một số nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến cách xác định bội chi ngân sách Nhà nước.
+Ta thấy là khi lãi suất càng cao và tăng trưởng càng thấp thì làm cho mức chênh lệch giữa lãi suất và tăng trưởng càng cao, hoặc khi tổng dư nợ càng nhiều thì giá trị của thâm hụt ngân sách bậc một càng nhỏ dần lại thậm chí phải có thặng dư và số thặng dư này phải cao dần mới đảm bảo duy trì được sự ổn định của tỷ suất nợ trên GDP.
+Trong điều kiện có lạm phát thì nhìn chung lạm phát càng cao thì gánh nặng nợ càng nhẹ.Tuy nhiên cái giá của việc sử dụng lạm phát không phải là nhỏ.Bởi vì khi mà nền kinh tế có một mức lạm phát cao trong nhiều năm thì sẽ dẫn đến tăng lãi suất từ đó sẽ gây ra tình trạng suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng.Theo thời gian thì lạm phát sẽ làm tăng những khoản nợ nước ngoài, suy giảm sức cạnh tranh quốc tế của những hàng hoá sản xuất trong nước, gây ra sự dịch chuyển thu nhập từ người cho vay sang người đi vay một cách không bình thường và sẽ làm giảm lòng tin của người dân vào chính phủ.
Như vậy dù muốn hay không muốn thì những nhân tố ảnh hưởng đến cách xác định bội chi ngân sách vẫn luôn tồn tại và gây ra những tác hại không nhỏ, chúng ta cần phải có những biện pháp làm hạn chế một cách tối đa những tác hại mà chúng gây ra.
1.3: Ảnh hưởng của bội chi ngân sách Nhà nước
Tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước có những ảnh hưởng hết sức rộng lớn trên tất cả các lĩnh vực, các hoạt đông kinh tế xã hội.Thâm hụt ngân sách Nhà nước với một mức cao và triền miên sẽ làm cho Nhà nước phải tìm cách tăng các khoản thu, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân, hơn nữa khi đó các nguồn vốn trong các ngân hàng sẽ trở nên khan hiếm hơn điều đó sẽ dẫn đến tình trạng lãi suất tăng cao, điều này gây ra những trở ngại trong việc vay vốn của các nhà đầu tư.Về lâu về dài thì sẽ dẫn đến tình trạng đầu tư sẽ giảm sút nghiêm trọng, sẽ có nhiều doanh nghiệp bị phá sản do không tìm được những khoản vay thích hợp, sản xuất trong nước bị thu nhỏ lại từ đó sẽ toạ điều kiện thúc đẩy quá trình nhập siêu, cán cân thương mại quốc tế mất cân bằng.Những điều này dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng, thu nhập thực tế của người dân giảm sút và ngày càng gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Mặt khác khi xảy ra tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lạm phát cao.Bởi lẽ khi có thâm hụt ngân sách thì một biện pháp mà chính phủ hay dùng là phát hành tiền để bù đắp ngân sách, mà khi tiền được tạo ra một cách quá mức như thế thì sẽ dẫn đến lạm phát tăng cao, mà nếu như Chính phủ phát hành tráI phiếu ra công chúng để thu hút vốn, bù đắp cho phần thiếu hụt thì trong một thời gian dài sẽ làm cho cầu về vốn tăng, do đó lãi suất tăng và cung tiền tệ sẽ tăng.
Hơn nữa khi mà hiện nay nước ta đang trong quá trình xây dựng và phát triển, rất cần sự ủng hộ, giúp đỡ của người dân trong nước cũng như bạn bè thế giới.Nếu như mà chúng ta không biết cách quản lí nguồn vốn, nền tài chính cũng như ngân sách quốc gia cho tốt thì dần dần sẽ gây mất lòng tin của người dân cũng như của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.Họ đầu tư càng ngày càng ít hơn, dẫn đến nước ta đã thiếu vốn để xây dựng đất nước nay lại càng thiếu hơn, những mục tiêu tốt đẹp mà chúng ta đã đề ra sẽ khó mà có thể trở thành hiện thực được.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1: Thực trạng bội chi ngân sách Nhà nước
2.1.1: Tình hình bội chi ngân sách Nhà nước
Trong 20 năm đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới cho đến nay thì năm 1993 là năm ngân sách Việt Nam có mức bội chi cao nhất, lên tới 6,5%GDP.Lý do chủ yếu là Nhà nước tập trung xây dựng đường dây tải điện 500KV bắc -nam.Những năm sau đó thì bội chi được kiềm chế ở mức thấp dưới 5%GDP.Bình quân trong giai đoạn này bội chi ngân sách Nhà nước đạt khoảng 4% GDP, đồng thời số thu từ thuế, phí, lệ phí dành cho chi đầu tư phát triển ngày càng tăng, cụ thể năm 1991 là 0,2% đến năm 2000 đã là 1,8% và trong những năm gần đây là xấp xỉ 3& GDP.Tư năm 1993 Nhà nước ta đã chủ trương chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước.
Trong những năm qua thì tình hình ngân sách Nhà nước ta đã có những bước cải tiến và đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ.Thu ngân sách đã có sự tăng trưởng nhanh, cơ cấu thu chuyển hướng tích cực, nền tài chính ngày càng đi vào thế tự chủ.Thu ngân sách đã tăng từ13,1&GDP năm 1991 và càng ngày càng tăng trong những năm tiếp theo, đến nay nguồn thu trong nước ngày cang chiếm một tỷ lệ cao trong tổng thu ngân sách cụ thể là chiếm khoảng 97% tổng thu, điều đó không những đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên mà còn giành ra một khoản ngày càng tăng giành cho đầu tư phát triển và chi trả nợ.Thuế đã thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu trong nước chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách Nhà nước.Về chi ngân sách đã từng bước được cơ cấu theo hướng xoá bỏ bao cấp, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tăng chi đầu tư xã hội cơ sở hạ tầng phát triển nguồn nhân lực xoá đói giảm nghèo.Chú trọng chi trả nợ theo đúng cam kết, năng cao năng lực đảm bảo chi ngân sách ngày càng tiết kiệm và có hiệu quả hơn.Điều hành ngân sách Nhà nước từng bước chủ động và linh hoạt hơn, dự trữ dự phòng của ngân sách đã góp phần tích cực vào việc ổn định quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống khi nền kinh tế có những biến động bất thường như khủng hoảng tài chính tiền tệ, thiên tai lũ lụt…Chính vì lẽ đó mà tình hình bội chi ngân sách trong những năm qua đã có những cải thiện đáng kể góp phần quan trọng vào việc ổn định và phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được đó thì chúng ta cũng đã gặp phải không ít những sai lầm, còn có những hạn chế cần phải rút kinh nghiệm và khắc phục.Tiềm lực tài chính tuy đã được tăng lên đáng kể nhưng còn nhỏ bé và vẫn không theo kịp nhu cầu tăng chi để giải quyết những nhu cầu bức xúc của nền kinh tế.Nền tảng của nguồn thu ngân sách chua thực sự vững chắc, cơ cấu thu đã được đổi mới nhưng chưa thực sự toàn diện.Trong khi nhu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giáo dục, khoa học công nghệ, xoá đói giảm nghèo, thực hiện quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước đang là áp lực lớn cho ngân sách Nhà nước.
Thêm vào đó thì việc phân bổ sử dụng ngân sách Nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu quả đã được nâng lên nhưng chưa cao, vẫn còn tình trạng thất thoát trong sử dụng nguồn ngân sách.Chi cho đầu tư xây dựng cơ bản còn phân tán, công tác quy hoạch, chuẩn bị đâu tư, lập dự án chưa được chú trọng nên chất lượng công trình không cao.Chế độ tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách vừa thiếu vừa lạc hậu so với thực tế gây khó khăn cho việc cấp kinh phí, kiểm tra, kiểm soát trong chi ngân sách.Trong chi thường xuyên của chi ngân sách Nhà nước thì chi cho lương còn chiếm tỷ trọng lớn(chiếm 50% tổng chi thường xuyên) điều đó là do việc tinh giảm biên chế trong khu vựa hành chính sự nghiệp hiệu quả còn thấp.
Việc thực hành chống lãng phí, tiết kiệm chưa được các cấp quan tâm đầy đủ, vẫn còn có nhiều hoạt động mang tính phô trương hình thức, hội họp, chiêu đãi không cần thiết vẫn diễn ra ở nhiều nơi.Công tác kiểm tra còn mang tính hình thức, chưa thực sự phát huy hiệu quả.Chính điều này đã góp phần làm cho ngân sách không đủ để chi, tình trạng bội chi ngân sách vẫn còn diễn ra ỏ nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực trong đời sông kinh tế-xã hội.
2.1.2: Nguyên nhân chủ yếu của bội chi ngân sách Nhà nước
Trong thời gian qua thì tình hình bội chi ngân sách ở nước ta có nhiều diễn biến phức tạp, điều đó do nhiều nguyên nhân tác động.
-Có những thời kì mà nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, do đó mà dẫn đến tình trạng nền kinh tế bị giảm sút trong các năm 1997-2000.Để kích cầu nền kinh tế thì Nhà nước ta đã sử dụng nguồn ngân sách quốc gia chi cho đầu tư phát triển.
+Chi ngân sách vẫn đảm bảo chi cho đầu tư phát triển ổn định ở mức 6,4% GDP, đảm bảo các nghĩa vụ trả nợ đến hạn.Sau cuộc khủng hoảng thì nước ta lâm vào tình trạng giảm phát kéo dài có năm xuống 0,1% năm 1999, thậm chí la -0,6% năm 2000, tình hình