Theo thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thì hiện nay trên thế giới có khoảng hơn 100 nước đang áp dụng chế độ thuế giá trị gia tăng,một chế độ thuế gián thu cơ bản và đặc biệt quan trọng trong việc huy động nguồn thu cho Ngân sách nhà nước, đem lại số thu chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số thu Ngân sách nhà nước.Do vậy,trong hệ thống pháp luật thuế,pháp luật về thuế giá trị gia tăng có vị trí rất quan trọng.
Việc áp dụng chế độ thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam thay thế cho chế độ thuế doanh thu trong thời gian qua có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế – xã hội.Qua ba năm thực hiện,bên cạnh những thành công bước đầu và những giá trị kinh tế – xã hội đáng ghi nhận của chế độ thuế giá trị gia tăng đã chứng tỏ sự lựa chọn đúng đắn và sự cần thiết của việc áp dụng chế độ thuế này. Mặt khác,thực tiễn áp dụng chế độ thuế GTGT bộc lộ những bất cập trong các quy định của pháp luật đã gây ra những vướng mắc khi áp dụng,đặc biệt là trong điều kiện phát triển kinh tế – xã hội chưa cao,hoạt động của các doanh nghiệp còn thấp,sự suy giảm kinh tế do những tác động và ảnh hưởng hệ quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới và khu vực,cùng với thiên tai liên tiếp diễn ra đã càng tạo ra nhiều khó khăn hơn trong việc triển khai áp dụng trên thực tế.Điều đó đặt ra nhiệm vụ phải nghiên cứu đánh giá những quy định pháp luật hiện hành về thuế GTGT từ đó rút ra những gì đã đạt được và những gì chưa đạt được nhằm mục đích sửa đổi,bổ sung các văn bản pháp luật về thuế GTGT để nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng,đáp ứng những yêu cầu của đời sống kinh tế luôn luôn vận động và phát triển.
Tuy nhiên,bản thân pháp luật và chất lượng của nó không thể tự thể hiện trong đời sống xã hội mà phải thông qua cơ chế bảo đảm thực hiện.Do đó,để đảm bảo phát huy vai trò của chế độ thuế GTGT thì cùng với việc hoàn thiện pháp luật cần thiết phải hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện.Mối liên hệ giữa pháp luật về thuế GTGT và cơ chế bảo đảm thực hiện đặt ra yêu cầu là cần nghiên cứu làm sáng tỏ những yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng từ đó đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng.
Đến nay ở nước ta,đã có rất nhiều công trình nghiên cứu,hội thảo,bàn luận về thuế giá trị gia tăng,trong số các công trình nghiên cứu đó có các công trình nghiên cứu điển hình là : Báo cáo khảo sát về thuế giá trị gia tăng ở các nước Pháp,Thuỵ Điển,Trung Quốc (Tổng cục thuế,Bộ tài chính,1993);Mô hình áp dụng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Tổng cục thuế,Bộ tài chính năm 1993);Báo cáo tổng kết công tác triển khai thực hiện các Luật thuế mới(Tổng cục thuế,Bộ tài chính,5/2000);Một số bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành
Với mong muốn góp sức vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ thực trạng và các biện pháp nâng cao hiệu quả pháp luật thuế GTGT,tác giả đã lựa chọn đề tài: “Các biện pháp nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay” .
Với đề tài trên,tác giả luận văn không mô tả lại toàn bộ những nội dung điều chỉnh của pháp luật hiện hành về thuế giá trị gia tăng,mà việc nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng pháp luật về thuế giá trị gia tăng ,hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng và các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng.Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật và phát hiện những vướng mắc trong áp dụng và nguyên nhân của nó từ đó kiến nghị những biện pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng.
72 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2360 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các biện pháp nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng tại nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Theo thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thì hiện nay trên thế giới có khoảng hơn 100 nước đang áp dụng chế độ thuế giá trị gia tăng,một chế độ thuế gián thu cơ bản và đặc biệt quan trọng trong việc huy động nguồn thu cho Ngân sách nhà nước, đem lại số thu chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số thu Ngân sách nhà nước.Do vậy,trong hệ thống pháp luật thuế,pháp luật về thuế giá trị gia tăng có vị trí rất quan trọng.
Việc áp dụng chế độ thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam thay thế cho chế độ thuế doanh thu trong thời gian qua có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế – xã hội.Qua ba năm thực hiện,bên cạnh những thành công bước đầu và những giá trị kinh tế – xã hội đáng ghi nhận của chế độ thuế giá trị gia tăng đã chứng tỏ sự lựa chọn đúng đắn và sự cần thiết của việc áp dụng chế độ thuế này. Mặt khác,thực tiễn áp dụng chế độ thuế GTGT bộc lộ những bất cập trong các quy định của pháp luật đã gây ra những vướng mắc khi áp dụng,đặc biệt là trong điều kiện phát triển kinh tế – xã hội chưa cao,hoạt động của các doanh nghiệp còn thấp,sự suy giảm kinh tế do những tác động và ảnh hưởng hệ quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới và khu vực,cùng với thiên tai liên tiếp diễn ra đã càng tạo ra nhiều khó khăn hơn trong việc triển khai áp dụng trên thực tế.Điều đó đặt ra nhiệm vụ phải nghiên cứu đánh giá những quy định pháp luật hiện hành về thuế GTGT từ đó rút ra những gì đã đạt được và những gì chưa đạt được nhằm mục đích sửa đổi,bổ sung các văn bản pháp luật về thuế GTGT để nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng,đáp ứng những yêu cầu của đời sống kinh tế luôn luôn vận động và phát triển.
Tuy nhiên,bản thân pháp luật và chất lượng của nó không thể tự thể hiện trong đời sống xã hội mà phải thông qua cơ chế bảo đảm thực hiện.Do đó,để đảm bảo phát huy vai trò của chế độ thuế GTGT thì cùng với việc hoàn thiện pháp luật cần thiết phải hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện.Mối liên hệ giữa pháp luật về thuế GTGT và cơ chế bảo đảm thực hiện đặt ra yêu cầu là cần nghiên cứu làm sáng tỏ những yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng từ đó đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng.
Đến nay ở nước ta,đã có rất nhiều công trình nghiên cứu,hội thảo,bàn luận về thuế giá trị gia tăng,trong số các công trình nghiên cứu đó có các công trình nghiên cứu điển hình là : Báo cáo khảo sát về thuế giá trị gia tăng ở các nước Pháp,Thuỵ Điển,Trung Quốc…(Tổng cục thuế,Bộ tài chính,1993);Mô hình áp dụng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Tổng cục thuế,Bộ tài chính năm 1993);Báo cáo tổng kết công tác triển khai thực hiện các Luật thuế mới(Tổng cục thuế,Bộ tài chính,5/2000);Một số bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành…
Với mong muốn góp sức vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ thực trạng và các biện pháp nâng cao hiệu quả pháp luật thuế GTGT,tác giả đã lựa chọn đề tài: “Các biện pháp nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay” .
Với đề tài trên,tác giả luận văn không mô tả lại toàn bộ những nội dung điều chỉnh của pháp luật hiện hành về thuế giá trị gia tăng,mà việc nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng pháp luật về thuế giá trị gia tăng ,hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng và các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng.Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật và phát hiện những vướng mắc trong áp dụng và nguyên nhân của nó từ đó kiến nghị những biện pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với các phương pháp phân tích tổng hợp,đối chiếu,so sánh.Phương pháp phân tích,so sánh,đối chiếu được sử dụng nhằm làm sáng tỏ các khái niệm,các vấn đề đặt ra trong các quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng .Phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng chủ yếu để đưa ra những nhận xét mang tính chất khái quát hoá từ đó luận chứng cho những kiến nghị thích hợp.
Về mặt bố cục,ngoài lời mở đầu,kết luận,danh mục tài liệu tham khảo thì Luận văn được chia làm ba chương :
Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về cấu trúc và hiệu quả pháp luật của thuế giá trị gia tăng
Chương II : Thực trạng pháp luật và thực tế áp dụng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam
Chương III : Các biện pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả pháp luật thuế giá trị gia tăng
Chương I
Những vấn đề lý luận cơ bản về cấu trúc và
hiệu quả pháp luật của thuế giá trị gia tăng
I./ Khái niệm, bản chất và đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
1.Khái niệm thuế giá trị gia tăng
Cùng với sự ra đời của nhà nước,sự xuất hiện của thuế như là một sự đảm bảo cho hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước,bởi thuế là một nguồn thu quan trọng nhất của nhà nước,là cơ sở để đảm bảo chi cho ngân sách nhà nước.
Thuế được nghiên cứu dưới rất nhiều giác độ khác nhau.ở giác độ KT – TC,thuế thường được hiểu là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc của các thể nhân và pháp nhân cho nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.
Còn dưới giác độ pháp lý,thuế là nghĩa vụ pháp lý của các tổ chức và cá nhân phải chuyển một phần tài sản thuộc quyền sở hữu của mình vào Ngân sách nhà nước khi có đầy đủ các yếu tố cấu thành do luật thuế quy định.
Thực tiễn ở các nước cho thấy,việc có áp dụng thuế GTGT hay không là tuỳ thuộc vào điều kiện riêng của từng nước.Đa số nước áp dụng thuế GTGT là do hệ thống thuế cũ không còn phù hợp nữa.Một số nước có nền kinh tế phát triển nhưng chưa áp dụng thuế GTGT như Mỹ,úc.Các nước này chưa áp dụng thuế GTGT lý do chính là họ đã có thuế doanh thu đánh vào khâu bán lẻ,là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh,vì vậy không bị đánh trùng thuế.Cách thu thuế này được thu theo từng bang đã có nề nếp và thói quen,đang hoạt động tốt.Nếu ban hành thêm thuế GTGT áp dụng trên toàn liên bang thì phải thay đổi lại hệ thống thuế của các bang,điều này sẽ rất phức tạp cho nên họ chưa áp dụng.
Cũng theo kinh nghiệm của các nước áp dụng thuế GTGT thì thuế doanh thu có nhược điểm cơ bản là thu thuế trùng lặp qua mỗi lần bán hàng;đối với cùng một mặt hàng nếu tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau,thì số thuế phải nộp khác nhau(do một cơ sở sản xuất thuế phải nộp một lần;do nhiều cơ sở sản xuất thì qua mỗi cơ sở đều phải nộp làm số thuế nộp tăng)không phù hợp với cơ chế thị trường,chưa khuyến khích đầy đủ cho sản xuất hàng xuất khẩu;nhiều thuế suất nhưng tiêu thức sắp xếp các mặt hàng,dịch vụ vào từng thuế suất cụ thể rất khó xác định rõ ràng,chính xác,dễ dẫn đến việc thắc mắc về thuế và lợi dụng để trốn thuế,lách thuế.Do đó,nhằm khắc phục những nhược điểm trên của thuế doanh thu,các nước đã chuyển sang áp dụng thuế GTGT (theo tiếng Anh viết là Value Added Tax và viết tắt là VAT).
Thuế GTGT là thuế gián thu được thu trên giá trị tăng thêm ở từng khâu của quá trình kinh doanh(đối tượng nộp thuế sẽ tính số thuế giá trị gia tăng phát sinh khi bán hàng, và được khấu trừ số thuế giá trị gia tăng đã nộp khi mua hàng hoá vật tư,chỉ phải nộp phần chênh lệch vào ngân sách nhà nước).Thuế GTGT đã được áp dụng thống nhất đối với các loại hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá sản xuất trong nước nhằm đảm bảo tính nhất quán của thuế GTGT.
Đối tượng tính thuế GTGT là giá trị gia tăng của hàng hoá,dịch vụ.”Giá trị gia tăng “ là giá trị mà người sản xuất kinh doanh làm tăng thêm vào giá nguyên vật liệu hay hàng hoá mua vào trước khi bán ra sản phẩm hay dịch vụ mới.Về bản chất kinh tế,đó là chênh lệch giữa giá đầu ra và giá đầu vào do đơn vị kinh tế tạo ra trong quá trình sản xuất,lưu thông.
Về mặt nguyên tắc,nhà nước chỉ đánh thuế vào phần giá trị tăng thêm của hàng hoá,dịch vụ.Tuy vậy,cách hiểu “thuế GTGT chỉ đánh trên giá trị tăng thêm”chỉ đúng khi xét trên góc độ mỗi công đoạn sản xuất hay lưu thông.Trên thực tế,thuế GTGT được tính theo một tỷ lệ nhất định trên toàn bộ giá hàng hoá dịch vụ cuối cùng đến người tiêu dùng.Như vậy tên gọi “thuế GTGT” hoàn toàn không phải với ý nghĩa là loại thuế chỉ đánh khi phát sinh giá trị tăng thêm mà nó thể hiện phương pháp thu thuế theo phần trên giá trị gia tăng của hàng hoá,dịch vụ ở từng công đoạn sản xuất hoặc lưu thông(điều này cũng giải thích cho việc ở khâu nhập khẩu,thuế GTGT đánh trên toàn bộ giá trị hàng chứ không xác định trên giá trị tăng thêm).Thuế GTGT do tổ chức hay cá nhân kinh doanh phải nộp được xác định trên “giá trị” phát sinh thêm qua mỗi khâu từ sản xuất,lưu thông đến tiêu dùng.Giá trị tăng thêm đó được xác định bằng hiệu số giữa giá trị bán ra ở cuối mỗi khâu với giá trị mua vào ở đầu mỗi khâu.Tuy nhiên tổng số thuế GTGT mà tổ chức hay cá nhân kinh doanh phải nộp cho các công đoạn từ sản xuất đến chu kỳ lưu thông cuối cùng đúng bằng số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
2.Bản chất
Về bản chất,thuế GTGT là một loại thuế gián thu,là loại thuế mà nhà nước sử dụng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá,dịch vụ thông qua việc thu thuế đối với người sản xuất,kinh doanh hàng hoá,dịch vụ.Tính gián thu của thuế GTGT thể hiện ở chỗ người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất.Người nộp thuế là tổ chức hay cá nhân sản xuất,kinh doanh hàng hoá,dịch vụ thuộc diện đối tượng chịu thuế,còn người chịu thuế chính là người tiêu dùng nên người nộp thuế chỉ là người nộp thay cho người chịu thuế.
Khi nói thuế GTGT do người tiêu dùng chịu,có nghĩa là tiền thuế mà trên danh nghĩa được trả bởi tổ chức hay cá nhân kinh doanh bán hàng hoá,cung ứng dịch vụ sẽ được chuyển qua cho người tiêu dùng chịu dưới dạng cộng thêm vào giá bán hàng hoá,dịch vụ đó.
Với bản chất thuế GTGT là thuế đánh vào tiêu dùng nên dễ điều chỉnh vì người chịu thuế thường không cảm nhận được đầy đủ gánh nặng của thuế.
Hơn nữa,thuế GTGT còn góp phần khuyến khích đầu tư vốn,và kích thích phát triển kinh tế.Bởi vì việc thu thuế của nhà nước không ảnh hưởng tới thu nhập của nhà đầu tư.
3.Đặc điểm
Thứ nhất,đối với thuế doanh thu,Nhà nước đánh thuế đối với toàn bộ doanh thu phát sinh của mỗi khâu sản xuất lưu thông.Do đó,nếu các sản phẩm chịu thuế càng qua nhiều khâu thì số thuế Nhà nước thu cũng tăng thêm qua các khâu.Còn đối với thuế GTGT,nhà nước chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm của sản phẩm ở từng khâu sản xuất lưu thông,như vậy tổng số thuế GTGT mà nhà nước thu được không tăng thêm qua các khâu sản xuất,lưu thông.
Thứ hai,thuế GTGT có tính trung lập,có nghĩa là về mặt lý thuyết thuế GTGT không phải là một yếu tố trong chi phí của doanh nghiệp.Nó không làm ảnh hưởng tới giá cả hàng hoá,vì khi nó phải nộp bởi doanh nghiệp này thì nó cũng được khấu trừ ở doanh nghiệp khác,chỉ có người tiêu dùng cuối cùng mới không được khấu trừ.
Thứ ba,hiệu quả của thuế GTGT không phụ thuộc vào sự tổ chức và phân chia các chu trình kinh tế.Các khâu sản xuất kinh doanh của một sản phẩm dù được tập trung tại một doanh nghiệp hoặc phân chia cho nhiều doanh nghiệp khác nhau thì tổng số thuế Nhà nước thu được luôn bằng với số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Thứ tư,thuế GTGT có khấu trừ số thuế nộp ở giai đoạn trước.Về cơ bản,các khâu sản xuất kinh doanh hàng hoá,dịch vụ trung gian không tạo ra số thu thuế GTGT cho nhà nước,vì số thuế nộp ở những giai đoạn này sẽ được khấu trừ hoặc hoàn lại,cho đến khi sản phẩm cuối cùng được tiêu dùng.
Như vậy,thuế GTGT vẫn đảm bảo được số thu kịp thời và thường xuyên cho Ngân sách nhà nước do được thu qua từng công đoạn của quá trình từ sản xuất đến lưu thông,và lại khắc phục được sự đánh trùng thuế của thuế doanh thu.
Thứ năm,áp dụng thuế GTGT tạo ra sự kiểm soát chặt chẽ hơn về thuế,góp phần chống trốn lậu thuế có hiệu quả.Do việc khấu trừ thuế đầu vào phải dựa trên cơ sở hoá đơn chứng từ nên buộc doanh nghiệp phải lưu giữ sổ sách kế toán đầy đủ,hoạt động mua bán phải có hoá đơn thì mới được khấu trừ thuế.Doanh thu hay giá bán ra của người bán phải là giá mua vào hay chi phí của người mua nên các đơn vị mua và bán không thể thông đồng trốn thuế vì quyền lợi mâu thuẫn nhau.
Thứ sáu,ngoài những đặc điểm trên,việc quản lý thu thuế GTGT khá phức tạp. Để thu thuế đòi hỏi phải có sự quản lý thống nhất và chặt chẽ hoạt động sản xuất kinh doanh và trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ thuế phải được tăng cường.Yêu cầu cơ bản là các doanh nghiệp phải ghi chép sổ sách chứng từ kế toán đầy đủ,minh bạch.Công việc kiểm soát tờ khai thuế của đối tượng nộp thuế chi phí rất lớn và đòi hỏi phải được điện toán hoá.Quản lý không chặt chẽ có thể dẫn đến tình trạng số thuế khấu trừ và hoàn thuế cao hơn so với số thu được của Nhà nước.
II./ Mô hình pháp luật thuế giá trị gia tăng
1.Cấu trúc pháp luật thuế giá trị gia tăng
1.1.Phạm vi áp dụng thuế GTGT
Với bản chất là thuế gián thu,thuế GTGT không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hoá và dịch vụ,điều đó có nghĩa là ba khái niệm “đối tượng chịu thuế “, “đối tượng nộp thuế” và “người chịu thuế” không đồng nhất với nhau.Do vậy,việc phân biệt ba khái niệm trên là rất quan trọng về phương diện pháp lý.
Người chịu thuế GTGT là người tiêu dùng cuối cùng hàng hoá,dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT.Người tiêu dùng cuối cùng là người sử dụng hàng hoá,dịch vụ không vì mục đích tạo ra hàng hoá,dịch vụ khác và làm cho hàng hoá,dịch vụ đó thoát ra khỏi chu trình lưu thông.Vì vậy,người chịu thuế GTGT không bị ràng buộc bởi những điều kiện pháp lý như người nộp thuế GTGT và theo thông lệ người chịu thuế thường không được quy định trong luật thuế,mặc dù họ là người đã phải chuyển một phần tài sản thuộc quyền sở hữu của mình vào Ngân sách nhà nước khi thực hiện hành vi tiêu dùng hàng hoá,dịch vụ chịu thuế GTGT.
Đối tượng nộp thuế GTGT là những cá nhân,tổ chức có hoạt động sản xuất,kinh doanh hay nhập khẩu hàng hoá,kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế.Như vậy,đối tượng nộp thuế bao trùm lên hầu hết mọi đối tượng sản xuất kinh doanh và không chỉ bao gồm các cơ sở sản xuất kinh doanh trong nước mà còn bao gồm cả các tổ chức,cá nhân nước ngoài có hoạt động sản xuất,kinh doanh hay nhập khẩu hàng hoá thuộc diện chịu thuế tại nước đánh thuế.
Tuy nhiên,ở nhiều nước,để đảm bảo hiệu quả công tác quản lý thu thuế GTGT,đối với đại bộ phận các cá nhân,tổ chức sản xuất,kinh doanh ở quy mô nhỏ không áp dụng thuế GTGT mà áp dụng chế độ thuế khoán.Diện miễn thuế GTGT áp dụng cho những đối tượng kinh doanh nhỏ có doanh thu hàng năm dưới mức quy định (ví dụ : 200.000 pê xô ở Philipines; 200.000 Sek ở Thuỵ Điển; 30.000 Đô la Canada ở Canada; 100.000 DKK ở Đan Mạch; 1000.000 Đô la Singapore ở Singapore; 600.000 bạt ở Thái Lan ….).Quy định không áp dụng thuế GTGT mà áp dụng chế độ thuế khoán với một số đối tượng trên có tác dụng làm giảm gánh nặng quản lý thu thuế đối với các đối tượng kinh doanh nhỏ.Vì các đối tượng này trong kinh doanh,việc thực hiện chế độ sổ sách kế toán thường không đảm bảo và chi phí quản lý thu thuế GTGT thường không hiệu quả so với số thu được.
Trong giai đoạn chuyển đổi từ thuế doanh thu sang áp dụng thuế GTGT,các nước thường có ba hình thức triển khai áp dụng thuế GTGT :
Thứ nhất,áp dụng thuế GTGT toàn bộ,có nghĩa là áp dụng đối với các đối tượng nộp thuế hoạt động ở tất cả các lĩnh vực sản xuất,kinh doanh,bán buôn và bán lẻ.Điển hình áp dụng hình thức này là các nước : Thuỵ Điển,Pháp,Thái Lan,Hungari.
Thứ hai,áp dụng thuế GTGT từng phần,tức là áp dụng đến từng khâu của quá trình luân chuyển sản phẩm hàng hoá.Ví dụ như Inđônêxia,Nhà nước ban hành đạo luật từ năm 1983,nhưng do trình độ quản lý của cán bộ ngành thuế và nhận thức của người nộp thuế nên đến 1985,đạo luật thuế mới được thi hành và thực hiện theo từng bước như sau :
Năm 1985 : Đối tượng nộp thuế là những người sản xuất
Năm 1989 : Mở rộng phạm vi áp dụng đối với các đại lý bán buôn
Năm 1993 : Mở rộng phạm vi áp dụng đối với các đại lý bán lẻ.
Thứ ba,thực hiện thí điểm thuế GTGT đối với một số ngành,điển hình áp dụng hình thức này là Trung Quốc : Bước thí điểm chỉ áp dụng đối với các sản phẩm : Xe ô tô,tàu biển,năm 1984 mở rộng diện áp dụng đối với các sản phẩm xe đạp,quạt điện,kim khí,máy móc thiết bị,phụ tùng,động cơ,thép.Năm 1986 mở rộng diện đối với các sản phẩm công nghiệp nhẹ,vật liệu xây dựng,khoáng sản,kim loại.
Qua tổng kết đánh giá của các nước,trong ba hình thức tiến hành thuế GTGT thì hình thức áp dụng mang tính đồng loạt là hiệu quả nhất.Tuy nhiên,hình thức này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị đầy đủ về luật,các văn bản hướng dẫn dưới luật,trình độ hiểu biết của người nộp thuế,trình độ quản lý của cơ quan thuế,chứng từ hoá đơn,ý thức chấp hành pháp luật…Hình thức áp dụng thuế GTGT ở từng khâu kết quả bị hạn chế,còn hình thức áp dụng thí điểm ở phạm vi hẹp,ở một số ngành là không đem lại kết quả.
Theo thông lệ chung của các nước áp dụng thuế giá trị gia tăng thì đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng là hàng hoá,dịch vụ tiêu dùng nội địa bao gồm cả hàng hoá nhập khẩu.Về đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng ,các nước có quy định khác nhau,thường là những hàng hoá,dịch vụ tiêu dùng phục vụ thiết yếu cho con người và phục vụ cho lợi ích công cộng xã hội và an ninh quốc phòng không nhằm mục đích kinh doanh vì lợi nhuận.Số lượng nhóm hàng hoá,dịch vụ không chịu thuế tuỳ theo luật của từng nước quy định.Ví dụ : ở Đài Loan quy định 30 nhóm hàng hoá,dịch vụ không chịu thuế;ở Inđônêxia quy định có 15 nhóm hàng hoá,dịch vụ không chịu thuế;ở Hungari quy định có 5 nhóm hàng hoá dịch vụ không chịu thuế.
1.2.Căn cứ tính thuế GTGT
Về giá tính thuế GTGT có hai cách xác định như sau :
Cách thứ nhất,giá tính thuế là giá đã bao gồm thuế GTGT.Ví dụ như ở Pháp, thuế GTGT được tính vào giá bán và là yếu tố cấu thành giá bán sản phẩm hàng hoá.Có nghĩa là thuế được tính trên giá bán đã bao gồm thuế.
Cách thứ hai,giá tính thuế là giá chưa bao gồm thuế.Cách tính này áp dụng ở hầu hết các nước.Cách tính này làm cho bên mua và bên bán thấy rõ ràng hơn giá chưa có thuế và số thuế GTGT.
Trong trường giá thực và giá ghi trên hoá đơn,chứng từ có sự khác biệt thì xét về phương diện pháp lý chừng nào chưa chứng minh được giá ghi trên hoá đơn chứng từ là không phù hợp với giá thực thì vẫn phải dựa vào giá ghi trên hoá đơn chứng từ để xác định phạm vi mức độ nghĩa vụ thuế GTGT.Còn ngược lại, nếu chứng minh được thì phải dựa vào giá thực để xác định mức độ nghĩa vụ thuế GTGT đồng thời chủ thể vi phạm phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi gian lận của mình.
Thời điểm tính thuế thông thường được xác định khi một trong các yếu tố sau phát sinh : giao hàng,chuyển giao quyền sở hữu,nhận thanh toán,phát hành hoá đơn GTGT,sử dụng hàng hoá,dịch vụ.Nhưng thông thường đối với hàng hoá là khi hàng hoá được bán,còn đối với dịch vụ là khi người cung cấp dịch vụ nhận được tiền trả cho dịch vụ.
Thuế suất là đại lượng xác định mức độ,phạm vi nghĩa vụ nộp thuế trên một đơn vị của đối tượng chịu thuế.Hay nói cách khác thuế suất là định mức thu thuế(mức thuế phải thu)trên một đơn vị của đối tượng chịu thuế.Đây chính là mối quan tâm hàng đầu của người nộp thuế.Vì vậy, việc xác định thuế suất phải quán triệt được quan điểm vừa coi trọng lợi ích chung của quốc gia vừa phải chú ý đến lợi ích của người nộp thuế.
Mỗi nước tuỳ vào đặc điểm kinh tế – xã hội và chế độ thu thuế doanh thu trước đó mà có các quy định về thuế suất thuế GTGT cho phù hợp.Hầu hết các nước đều áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hoá xuất khẩu.Đối tượng áp dụng thuế suất 0% được thoái trả lại số thuế GTGT đã chịu trên hàng hoá đầu vào.Biện pháp này được đánh giá là hữu hiệu nhất đối với việc khuyến khích xuất khẩu.Cũng có một số nước áp dụng thuế suất 0% đối với các mặt hàng và dịch vụ khác như Thuỵ Điển(đối với báo chí xuất bản hàng ngày,xăng máy bay phản lực),Canada(đối với lương thực,thực phẩm,các dịch vụ tài chính quốc tế).Bên cạnh đó,cũng có nước không áp dụng thuế suất 0% như Đan Mạch và Trung Quốc.
Hiện nay ở các nước hai loại cơ cấu thuế suất thuế GTGT :
Thứ nhất,loại hình áp dụng một thuế suất(không kể thuế suất 0% áp dụng với xuất khẩu và một số mặt hàng thiết yếu) : Theo thống kê thì trong số 100 nước thì có 44 nước áp dụng thuế GTGT với cơ chế một thuế