Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc mở cửa hội nhập về kinh tế - xã hội là điều mà rất nhiều người đang hướng tới. nhưng ngoài những mặt tích cực rất rõ nét của chúng. Nó còn để lại ở đây những nguy cơ vô cùng to lớn: Đó là tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế. Nó có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong của cả một quốc gia. Do đó Đảng và Nhà nước ta đã xác định việc đấu tranh chống tham nhũng và tụt hậu xa hưn về kinh tế là vấn đề hết sức khó khăn và nó có ảnh hưởng rất lớn đối với việc phát triển kinh tế đất nước ta.
Với tham nhũng, được nhân dân Việt Nam coi là quốc nạn, là một nguy cơ làm tàn hại đất nước. Đây là một căn bệnh của xã hội loài người. Nó xảy ra ở những quốc gia và khu vực rất khác biệt về hệ tư tưởng, lịch sử, văn hoá, chế độ chính trị, xã hội.
Còn việc tụt hậu xa hơn về kinh tế, đây cũng là vấn đề rất nan giải và là bài toán khó cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình bắt kịp với đà phát triển của nền kinh tế thế giới. Từ những năm 1975, nước ta đi theo con đường kế hoạch hoá tập trung. Nhưng nhìn thấy mặt tiêu cực của nó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa nước ta phát triển theo kinh tế thị trường và có những thành tựu đáng kể. Nhưng để bắt kịp được với đà phát triển của thế giới thì đó là cả vấn đề cực kỳ khó khăn.
Vì vậy, việc tìm hiểu và các biện pháp phòng chống về tham nhũng và vấn đề tụt hậu xa hơn về kinh tế đã trở thành vấn đề trung tâm thu hút sự chú ý của cộng đồng thế giới hiện nay.
42 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3991 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các biện pháp phòng chống về tham nhũng và vấn đề tụt hậu xa hơn về kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Lời nói đầu
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc mở cửa hội nhập về kinh tế - xã hội là điều mà rất nhiều người đang hướng tới. nhưng ngoài những mặt tích cực rất rõ nét của chúng. Nó còn để lại ở đây những nguy cơ vô cùng to lớn: Đó là tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế. Nó có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong của cả một quốc gia. Do đó Đảng và Nhà nước ta đã xác định việc đấu tranh chống tham nhũng và tụt hậu xa hưn về kinh tế là vấn đề hết sức khó khăn và nó có ảnh hưởng rất lớn đối với việc phát triển kinh tế đất nước ta.
Với tham nhũng, được nhân dân Việt Nam coi là quốc nạn, là một nguy cơ làm tàn hại đất nước. Đây là một căn bệnh của xã hội loài người. Nó xảy ra ở những quốc gia và khu vực rất khác biệt về hệ tư tưởng, lịch sử, văn hoá, chế độ chính trị, xã hội.
Còn việc tụt hậu xa hơn về kinh tế, đây cũng là vấn đề rất nan giải và là bài toán khó cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình bắt kịp với đà phát triển của nền kinh tế thế giới. Từ những năm 1975, nước ta đi theo con đường kế hoạch hoá tập trung. Nhưng nhìn thấy mặt tiêu cực của nó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa nước ta phát triển theo kinh tế thị trường và có những thành tựu đáng kể. Nhưng để bắt kịp được với đà phát triển của thế giới thì đó là cả vấn đề cực kỳ khó khăn.
Vì vậy, việc tìm hiểu và các biện pháp phòng chống về tham nhũng và vấn đề tụt hậu xa hơn về kinh tế đã trở thành vấn đề trung tâm thu hút sự chú ý của cộng đồng thế giới hiện nay.
B. Nội dung
Chương I: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế
1.1. Nguyên nhân ra đời và sự gia tăng của nạn tham nhũng
1.1.1. Tham nhũng
1.1.1.1. Khái niệm về tham nhũng
Tham nhũng là hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự ra dời và phát triển của bộ máy Nhà nước. Tệ nạn tham nhũng diễn ra ở tất cả các quốc gia không kể giàu nghèo, đang ở trình độ phát triển như thế nào. Nó xảy ra ở mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá nó tồn tại và phát triển thường xuyên hàng ngày hàng giờ, nó len lỏi vào mọi mặt đời sống xã hội và đụng chạm tới lợi ích của hầu hết dân cư. Tham nhũng là một căn bệnh nguy hiểm, nó gây ra các hậu quả hết sức tai hại về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, nó cản trợ sự phát triển đi lên của xã hội. Và có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả một thể chế. Và nhìn từ góc độ pháp luật: Điều 1, pháp lệnh chống tham nhũng quy định "Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố làm trái ý với pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản nhà nước và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức.
1.1.1.2. Nguyên nhân của tham nhũng
Những năm gần đây tình hình tham nhũng ở nước ta diễn biến hết sức phức tạp. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, chính sách pháp luật để đấu tranh kiên quyết với hiện tượng này, song tham nhũng cũng chưa có nhiều thuyên giảm. Để đấu tranh có hiệu quả với tình trạng này, một trong các vấn đề được quan tâm hàng đầu đó là tìm được các nguyên nhân làm phát sinh tham nhũng và tìm các biện pháp khắc phục, loại trừ những nguyên nhân đó. Trước hết phải khẳng định ràng, hệ thống pháp luật và cơ chế áp dụng nó có ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng tham nhũng. Hay nói cách khác tình trạng tham nhũng ở một quốc gia tại một thời điểm xác định phản ánh mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật cũng như thực trạng áp dụng pháp luật. Từ đó ta có thể nhìn ra các nguyên nhân sau:
- Thứ nhất: Nguyên nhân đầu tiên có tính sâu xa, bản chất là do chế độ người bóc lột người sinh ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của xã hội cũ. Nó do lòng tự tư tự lợi, ích kỷ hại dân mà ra, nó do chế độ người bóc lột người sinh ra".
- Thứ hai: đó là do bản chất của cơ chế thị trường, của việc tự do hoá cạnh tranh tạo ra.
- Thứ ba: Sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên và sự yếu kém của công tác quản lý, giáo dục đào tạo cán bộ đảng viên của các tổ chức Nhà nước và Đảng.
Trước đây, trong cơ chế cũ tập trung, quan liêu bao cấp đã có tham nhũng nhưng ở phạm vi hẹp hơn và mức độ thấp hơn. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu với bên ngoài, do tác động bởi yếu tố vật chất của cơ chế đó và do không chịu thường xuyên rèn luyện tu dưỡng nhiều cán bộ đảng viên, công chức đã sa ngã, thoái hoá, chạy theo lối sống chủ nghĩa cá nhân, bị lợi ích vật chất cám dỗ, sống đồi truỵ xa hoa, đã trượt vào cùng bùn tham nhũng, tội lỗi. Trong khi đó công tác quản lý, giáo dục kiểm tra cán bộ Đảng, cán bộ và công chức bị buông lỏng, yếu kém, không chuyển kịp trước tình hình mới.
- Thứ tư: Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa đầy đủ, thiếu sự đồng bộ, chưa thực sự chuyển mạnh sang cơ chế thị trường.
Mặc dù nước ta đã trải qua hàng chục năm đổi mới, nhưng chúng ta chưa xây dựng được một hệ thống cơ chế, chính sách quản lý kinh tế vĩ mô đồng bộ và hoàn chỉnh phục vụ cho sự nghiệp đổi mới.
- Thứ năm: Sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng và Nhà nước có lúc, có nơi còn thiếu sâu sát, chặt chẽ, chưa quyết tâm cao, cơ chế tổ chức và giải pháp phòng ngừa tham nhũng chưa hiệu quả.
Tuy Đảng và Nhà nước có nhiều chỉ thị, nghị quyết về phòng, chống, tham nhũng nhưng việc triển khai cụ thể chưa bàn kỹ, thiếu những giải pháp có hiệu quả, tổ chức chỉ đạo chưa chặt chẽ.
Tóm lại, tình trạng tham nhũng phổ biến và nghiêm trọng ở nước ta xét về mặt chủ quan là hệ quả tổng hợp của 5 nguyên nhân trên, trong đó nguyên nhân về sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là nguyên nhân chủ yếu.
1.1.1.3. Sự gia tăng hơn của nạn tham nhũng
ở vào thời điểm mở đầu của thiên niên kỷ mới, hầu hết tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt giàu nghèo, phát triển hay đang phát triển phải đối diện một cách gay gắt với căn bệnh nan y nhức nhối, đó là nạn tham nhũng. ở nhiều nước, tham nhũng đã trở thành quốc nạn, không chỉ gây những hiệu quả to lớn về mặt kinh tế mà còn để lại những hậu quả xã hội nặng nề, làm băng hoại đến nền tảng đạo đức và tinh thần xã hội. Với quy mô rộng lớn, tính chất phức tạp và nhiều tác dụng tiêu cực mang tính đa chiều của nó, tham nhũng đang thực sự nổi lên như một đại dịch - một vấn đề mang tính toàn cầu xuyên thế kỷ. Bởi vậy cuộc chiến chống tham nhũng đòi hỏi những nỗ lực to lớn và kiên quyết không chỉ trên phạm vi một quốc gia mà cả sự phối hợp trên quy mô toàn cầu. Theo đánh giá của ngân hàng phát triển châu á (ADB), tham nhũng đang có xu hướng gia tăng tại nhiều châu lục, ở nhiều nước số thiệt hại do tham nhũng gây ra vượt quá tổng số nợ nước ngoài của họ. Nhiều nước Đông Nam á vốn đã phải gồng mình vật lộn với cơn bão táp khủng hoảng tài chính - tiền tệ lại phải đương đầu với sự tàn phá không kém của tệ nạn tham nhũng, hối lộ và rửa tiền, khiến cho công cuộc phục hưng kinh tế đang trở ngại lại càng thêm phần gian nan.
Đối với Việt Nam, Đảng và Chính phủ ta luôn khẳng định chống tham nhũng một cách kiên quyết và triệt để. Nhằm làm trong sạch bộ máy đảng, chính quyền và đoàn thể. Báo cáo Chính trị Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục nhấn mạnh tham nhũng quan liêu là một trong những nguy cơ không thể xem thường. Với sự gia tăng của tệ nạn tham nhũng hiện nay thì cuộc đấu tranh chống tham nhũng phải được tiếp cận như là cuộc đấu tranh loại trừ một quốc nạn nguy hiểm. Và trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay, Đảng cũng dành sự quan tâm đặc biệt đến việc giải quyết vấn nạn này. Văn kiện Đại hội IX ĐCSVN nêu rõ: "Hiện nay, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đang hết sức quan tâm đến cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng kéo dài gây bất bình trong nhân dân và là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta. Phải tăng cường về tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ TW đến cơ sở?
1.1.2. Tụt hậu xa hơn về kinh tế, mặt yếu kém của sự phát triển
Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường trong bối cảnh kinh tế - chính trị thế giới đang trong quá trình cơ cấu lại một cách sâu sắc. Hơn nữa, Việt Nam nằm trong khu vực châu á với nền văn minh Trung Hoa đặc sắc và có sự phát triển kinh tế năng động nhất trong thập kỷ qua. Liệu Việt Nam có phát triển vượt lên được theo con đường phương Đông, con đường Việt Nam riên của mình hay không?
So với nhiều nước trong khu vực, sự phát triển của Việt Nam đang bị chậm vài thập kỷ, Việt Nam đã bị tụt hậu khá xa về kinh tế, là một trong những nước nghèo nhất thế giới và có nguy cơ tụt hậu mạnh hơn nữa nếu không có một đường lối, chiến lược thông minh và có một quyết tâm cao.
Đó là sự nhìn nhận với nền kinh tế Việt Nam. Còn nhìn vào sự tụt hậu xa hơn về kinh tế giữa các nước trên thế giới. Với xu thế càng ngày càng phát triển hiện nay thì khoảng cách giữa các nền kinh tế, các nước ngày càng được gia tăng. Song, có không ít những thăng trầm trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử. Với điểm xuất phát rất cao, các cường quốc như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nhật Bản (các nước phát triển) rất thuận lợi. Trong quá trình phát triển kinh tế nhưng với điểm xuất phát thấp như Việt Nam, Lào, Campuchia và một số nước châu Phi, châu Mỹ (các nước chậm và kém phát triển) thì việc phát triển kinh tế là vấn đề rất nan giải. Trong những năm 90, thế giới đã chứng kiến sự thay đổi lớn lao chưa từng có kể từ đầu thế kỷ đến nay. Sự kiện nổi bật nhất là sự sụp đổ của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội Xô viết, kéo theo đó là sự sụp đổ của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa. Tác động của những sự kiện đó đối với nền kinh tế thế giới rất to lớn, chúng đã, đang và sẽ diễn ra có thể cho đến nay chúng ta vẫn chưa lường trước được.
Thực vậy, trong thập kỷ 90 chiều hướng giảm sút nhịp độ tăng kinh tế toàn cầu có thể tiếp tục. Bảng số liệu mức tăng tổng sản phẩm xã hội (% so với năm trước) sau đây cho ta rõ chiều hướng giảm sút đó.
Nước
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
- Các nước XHCN trước đây
2,9
2,0
4,1
1,3
-2,2
-9,7
-16,8
- Các nước phát triển
2,7
3,3
4,4
3,3
2,9
1,6
1,0
- Các nước đang phát triển
2,6
2,9
3,7
4,4
3,3
3,2
3,0
Theo đánh giá của cơ qua dự báo quốc tế, trong những năm tới, mức tăng tổng thu nhập quốc dân của hầu hết các nước phát triển đều chỉ đạt 0,1% còn ở một số nước khác là âm còn mức tăng trưởng của các nước đang phát triển và kém phát triển còn tồi tệ hơn nữa. Từ đó cho thấy, ngay trong những giai đoạn suy sụp nhất của nền kinh tế thế giới, nhưng các nước phát triển vẫn giữ được mức tăng trưởng dương dù là nhỏ. Còn các nước khác là âm. Từ đó cho thấy khoảng cách (hay tụt hậu xa hơn về kinh tế) giữa các nước trên thế giới là không thể tránh khỏi.
1.2. Thực trạng và những vấn đề tồn tại của tham nhũng ở nước ta
1.2.1. Thực trạng của tham nhũng
Từ trước đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng phòng, chống tham nhũng. Ngay từ năm 1945 sau khi dành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chăm lo giáo dục cán bộ, đảng viên nâng cao đạo đức cách mạng, thực hành "cần kiệm, liêm chính". Người đã chỉ rõ : Tham ô lãng phí, quan liêu là giặc "nội xâm". Trong thời kỳ xây dựng XNXH ở miền Bắc. Đảng ta đã tiến hành cuộc vận động "3 xây, 3 chống". Bước vào công cuộc đổi mới, Đại hội Đảng VI của Đảng đã yêu cầu tiến hành cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của cán bộ bộ máy nhà nước, đẩy lùi và xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm lành manh hoá các quan hệ xã hội. Bộ chính trị đã có Nghị quyết số: 04/NQ/TW (12-9-1987) để chỉ đạo cuộc vận động này. Sau đó Ban bí thư đã có chỉ thị số: 64-CT và Hội đồng Bộ trưởng có quyết định số: 240/HĐBT (26-6-1990) về đấu tranh chống tham nhũng: Đại hội VIII trong Văn kiện Đại hội ghi rõ nội dung của nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng. Tháng 2-1998, Uỷ ban thường vụ quốc hội đã thông qua Pháp lệnh chống tham nhũng. Tháng 2-1999 Hội nghị TW 6 (lần 2) khoá VIII đã đề ra nghị quyết về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đại hội Đảng IX (tháng 4-2001) đã quyết định thực hiện nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết TW 6 (lần 2) khoá VIII, tập trung làm tốt công tác giáo dục chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Tháng11-2001 Hội nghị trung ương lần thứ 4 (khoá IX) đã ra kết luận số: 04/KL-TW về tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, lãng phí. Kết luận của Trung ương đã xác định chống tham nhũng lãng phí là nhiệm vụ trước mắt, đồng thời cần nhận rõ đây là cuộc đấu tranh khó khăn, quyết liệt lâu dài, gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong quá trình thực hiện chủ trương chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước, các tổ chức, chính quyền đoàn thể TW - địa phương đã bền bỉ, tích cực đấu tranh và đạt được một số kết quả như: Đã phát hiện và xử lý được nhiệm vụ tham nhũng, trừng trị nghiêm khắc những kẻ đục khoét tài sản của Nhà nước, tập thể và của dân; thu hồi lại cho nhà nước và trả lại cho dân một giá trị tài sản rất lớn, đã xây dựng và hoàn thiện nhiều cơ chế chính sách quản lý có tác dụng hạn chế một phần tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng. Những việc đó đã góp phần vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy Nhà nước, đảm bảo an ninh chính trị xã hội đất nước. Mặc dù có những cố gắng quyết tâm nhưng cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta đạt kết quả còn thấp, hiệu quả rất hạn chế. Có nhiều lĩnh vực và thậm chí ngày càng nghiêm trọng hơn trước. Tham nhũng xảy ra rộng khắp trong bộ máy nhà nước, ở hầu hết các ngành các cấp từ trên xuống dưới với quy mô ngày càng lớn, thủ đoạn ngày càng tinh vi xảo quyệt hơn. Đã có nhiều doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân thua lỗ, phá sản vì tệ nạn tham nhũng. Tệ nạn tham ô, ăn cắp của công, cố ý làm trái vì động cơ vụ lợi cá nhân, báo cáo sai sự thật để thanh quyết toán khống, bòn rút công quỹ trong các lĩnh vực để làm giàu bất chính, lạm dụng chức quyền để nhũng nhiễu… đã lan rộng khắp các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, thương binh xã hội. Tham nhũng đã xâm nhập ngay vào các cơ quan bảo vệ, pháp luật, là những công cụ chủ yếu trong đấu tranh chống tham nhũng và giữ gìn an ninh trật tự, xã hội.
Một câu hỏi được đặt ra: Vì sao tham nhũng lại diễn ra phổ biến và nghiêm trọng như vậy? Mặc dù Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều chỉ thị, Nghị quyết, đã tiến hành nhiều cuộc vận động lớn, đã chỉ đạo xử lý nhiều vụ rất nghiêm khắc, mặc dù bị cả xã hội lên án, ai ai cũng căm ghét phẫn nộ, nhưng tệ nạn tham nhũng chưa bị đẩy lùi, ngăn chặn, thậm chí còn phát triển hơn, nghiêm trọng hơn.
Trước câu hỏi này đặt ra rất nhiều vấn đề như cơ chế chính sách chưa hoàn thiện, còn sơ hở, về đời sống khó khăn, lương thấp, có người cho rằng vì phẩm chất đạo đức suy thoái, công tác giáo dục đào tạo cán bộ đảng viên kém, người thì cho rằng các nhà lãnh đạo không gương mẫu, chưa chống đều khắp từ trên xuống dưới, công tác điều tra còn bị coi nhẹ, kém hiệu quả, việc xử lý các vụ tham nhũng chưa nghiệm… Theo báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 10 khoá IX đã phát hiện và xử lý trên 500 vụ tham nhũng với tổng số tài sản thiệt hại trên 1,2 tỷ đồng và 34 triệu USD. Đặc biệt năm 1996 ta đã phát hiện 10 vụ tham nhũng lớn trên 100 tỷ đồng/vụ. Theo báo cáo của Chánh án Toà án Nhân dân tối cao trước Quốc hội, từ năm 1992 - 1997 toà án xét xử 3621 vụ tham nhũng với 6315 bị cáo, trong đó có 64,5% số bị cáo bị tù, 10 tên bị tuyên phạt tử hình. Và đến nay vẫn liên tiếp xảy ra các vụ án lớn nghiêm trọng gây thiệt hại lớn đến tiền của của Nhà nước và nhân dân, gây mất ổn định về kinh tế xã hội. Tiêu biểu như việc phát hiện thu hồi về cho Nhà nước hàng nghìn tỉ đồng, hàng chục ngàn héc ta đất, cùng nhiều tài sản có giá trị khác, xử lý hàng chục nghìn cán bộ sai phạm, công chức sai phạm như EPCO - Minh Phụng; Tân Trường Sanh; Nhà máy dệt Nam Định. Gần đây tiếp tục làm rõ các vụ án lớn như: Công ty thương mại Đồng Tháp; Công ty lương thực an Giang; Công ty dược xuất nhập khẩu Cà Mau, vụ Năm Cam… cũng đã có tác dụng phòng ngừa, răn đe giáo dục mọi người trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
1.2.2. Những vấn đề tồn tại
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định, quan liêu tham nhũng là những hiện tượng xã hội gắn liền với sự hình thành xã hội có giai cáp và sự ra đời và phát triển của bộ máy Nhà nước… Chúng là những căn bệnh đồng hành đặc trưng của mọi nhà nước, là khuyết tật bẩm sinh của quyền lực, là biểu hiện của sự tha hoá "quyền lực nhà nước", tệ nạn tham nhũng, quan liêu diễn ra ở tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị xã hội, không kể quốc gia đó giàu nghèo, ở trình độ phát triển thấp hay cao. Chúng len lỏi vào mọi mặt của đời sống xã hội, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, làm xói mòn đạo đức, phẩm chất con người, gây ra sự cản trở đi lên và phát triển của xã hội. Tuy nhiên, hình thức, tính chất và mức độ quan liêu, tham nhũng không mang tính cố định, bất biến mà thay đổi tuỳ thuộc vào bối cảnh kinh tế chính trị xã hội và trình độ dân trí, khả năng quản lý xã hội của Nhà nước.
Với việc tham nhũng ngày càng gia tăng, và có quy mô ngày càng lớn như hiện nay. Và với các biện pháp phòng ngừa đang dần dần có hiệu quả. Nếu như những yếu tố của các chiến dịch chống tham nhũng thành công cho đến nay đã được hiểu tương đối đầy đủ, thì việc thực hiện và duy trì chúng lại cực kỳ khó khăn. Bất kỳ yếu tố nào cũng đều có thể góp phần đưa chúng đến chỗ thất bại. Hơn nữa, những nơi mà tham nhũng hoành hành và ăn sâu vào toàn bộ bộ máy chính phủ, thì các cơ hội để bắt đầu cải cách sẽ rất hiếm hoi và hàng loạt cản trở sẽ xuất hiện.
Thêm vào đó, áp lực cải cách bắt nguồn từ những đẳng cấp thấp hơn trong bộ máy quan liêu có thể bị cản trở do sự thiếu vắng ý chí hay sự quan tâm chính trị trong những công chức ở cấp cao hơn và các quan chức chính trị. Tại bất cứ trong tiến trình này, sự thiếu vắng một cam kết từ cấp cao nhất hay tầng thấp nhất đều có thể thực sự phá hỏng những nỗ lực cải cách. Hơn nữa, cải cách có thể bị đe doạ nếu như, một nhân vật có thế lực không tuân thủ hay một công chức làm chậm tiến độ của nó.
Cũng như những nỗ lực cải cách phải được sự hỗ trợ rộng rãi, chúng phải được hướng vào tất cả những người liên quan và hưởng lợi từ tham nhũng. Những chiến dịch nhằm vào những người vi phạm lặt vặt, hay xử lý chẳng hạn, một vài thành viên trong những phần tử có thế lực, mà không xử lý tham nhũng một cách có hệ thống thì sẽ mau chóng làm mất hết hợp pháp và tạo ra những tấm gương có sức khuyến khích những hành động sai trái tiếp diễn trong toàn thể các thành viên của xã hội. Cải cách cũng có thể kém hiệu quả nếu được tiến hành một cách vô tổ chức, phối hợp kém, có tính đột xuất, hoặc nếu việc dựa quá nhiều vào luật pháp và cưỡng chế sẽ dẫn đến tình trạng nguy cơ tham nhũng lớn nhất. Cán bộ luật cần giữ một vai trò quan trọng trong việc xử phạt những kẻ vi phạm, song chúng cần được bổ sung bằng những cuộc vận động nâng cao nhận thức của dân chúng bằng giáo dục và cải cách trên diện rộng.
1.2.3. Tác hại của tham nhũng với phát triển kinh tế
Tham nhũng sinh ra hàng loạt tác hại cho xã hội. Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội, kéo lùi sự phát triển theo quy mô và mức độ gây hại của nó. Chỉ riêng tổng thóng Môbutu của nước Công gô với số tiền tham nhũng trong các năm cầm quyền lên tới 9 - 10 tỷ USD đã bằng70% số nợ nước ngoài của nước này.
Nó làm giảm lòng tin của công dân đối với bộ máy và công chức, viên chức của bộ máy nhà nước, triệt tiêu động lực cơ bản nhất của sự phát triển. Điều này đã được V.I. Lênin khuyến cáo. Nếu có cái gì đó có thể tiêu diệt được chủ nghĩa xã hội thì đó là tham nhũng quan liêu. Đây cũng là bài học hàng đầu mà Đảng ta rút ra tại Đại hội lần thứ VI của Đảng, đó là bài học lấy dân làm gốc, dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra.
Tham nhũng sẽ làm "tầm thường hoá" hệ thống pháp luật của nhà nước, kỷ cương xã hội không thể giữ vững và là cơ hội cho kẻ thù phá hoại xâm lược. Nếu các nhà hàng pháp mà tự mình phá bỏ luật pháp thì làm sao có thể duy trì đ