Thế giới kinh doanh khắc nghiệt của con người không nằm ngoài quy luật, bất kỳ thành viên nào trên thế giới cũng phải luôn đấu tranh để sinh tồn, mà trong kinh doanh chúng ta gọi là “cạnh tranh”. Trong kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng ngày càng quyết liệt.
Việt Nam trong thời kỳ mở cửa, hội nhập, sự xuất hiện ngày càng tăng của các ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh càng làm cho môi trường cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và trong ngành ngân hàng nói riêng trở nên sôi động và rất khó nắm bắt. Chỉ cần một sự sơ xuất nhỏ trong kinh doanh là lập tức một ngân hàng có thể bị sụp đổ ngay tức khắc. Do vậy, nắm bắt và vận dụng được nguyên lý cạnh tranh vào hoạt động của ngân hàng mình như thế nào để có thể tồn tại và phát triển được là một vấn đề hết sức khó khăn, đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách khoa học.
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng liên doanh Lào-Việt chi nhánh Hà Nội, em nhận thấy ngân hàng có những lợi thế cạnh tranh nhất định trong hoạt động kinh doanh nhưng một số hạn chế hạn chế nghiêm trọng đã giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Xuất phát từ những nhu cầu thực tế của ngân hàng, sau một thời gian nghiên cứu và thực tập, được sự giúp đỡ của Thạc sỹ Lê Hương Lan và các cán bộ Chi nhánh LVB, em xin chọn đề tài cho Chuyên đề tốt nghiệp của mình là: “Các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho Ngân hàng liên doanh Lào-Việt, chi nhánh Hà Nội”.
Nội dung của đề tài gồm 3 chương như sau:
Chương I: Khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng khả năng cạnh tranh của Chi nhánh LVB Hà Nội.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho Chi nhánh LVB Hà Nội.
79 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2137 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho Ngân hàng liên doanh Lào - Việt, chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Thế giới kinh doanh khắc nghiệt của con người không nằm ngoài quy luật, bất kỳ thành viên nào trên thế giới cũng phải luôn đấu tranh để sinh tồn, mà trong kinh doanh chúng ta gọi là “cạnh tranh”. Trong kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng ngày càng quyết liệt.
Việt Nam trong thời kỳ mở cửa, hội nhập, sự xuất hiện ngày càng tăng của các ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh càng làm cho môi trường cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và trong ngành ngân hàng nói riêng trở nên sôi động và rất khó nắm bắt. Chỉ cần một sự sơ xuất nhỏ trong kinh doanh là lập tức một ngân hàng có thể bị sụp đổ ngay tức khắc. Do vậy, nắm bắt và vận dụng được nguyên lý cạnh tranh vào hoạt động của ngân hàng mình như thế nào để có thể tồn tại và phát triển được là một vấn đề hết sức khó khăn, đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách khoa học.
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng liên doanh Lào-Việt chi nhánh Hà Nội, em nhận thấy ngân hàng có những lợi thế cạnh tranh nhất định trong hoạt động kinh doanh nhưng một số hạn chế hạn chế nghiêm trọng đã giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Xuất phát từ những nhu cầu thực tế của ngân hàng, sau một thời gian nghiên cứu và thực tập, được sự giúp đỡ của Thạc sỹ Lê Hương Lan và các cán bộ Chi nhánh LVB, em xin chọn đề tài cho Chuyên đề tốt nghiệp của mình là: “Các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho Ngân hàng liên doanh Lào-Việt, chi nhánh Hà Nội”.
Nội dung của đề tài gồm 3 chương như sau:
Chương I: Khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng khả năng cạnh tranh của Chi nhánh LVB Hà Nội.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho Chi nhánh LVB Hà Nội.
ChươngII
Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh trong hoạt động của Ngân hàng thương mại
I. Khái quát về hoạt động của Ngân hàng thương mại
1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Nó được thể hiện thông qua luật ngân hạng Nhà nước, là một tổ chức hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi dựa trên nguyên tắc hoàn trả tiến hành cho vay, chiết khấu và các phương thức thanh toán.
2. Các hoạt động của Ngân hàng thương mại
Theo điều 9- Luật NHNN và điều 20- Luật các Tổ chức tín dụng, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng, số tiền này để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán.
Về cơ bản các nghiệp vụ của NHTM bao gồm:
2.1. Hoạt động huy động vốn.
Đây là nghiệp vụ quan trọng đối với NHTM, bởi lẽ nó là cơ sở ngân hàng ra đời, tồn tại và phát triển. Hoạt động này có ý nghĩa đặc biệt vì trên cơ sở vốn huy động được, ngân hàng mới có thể thực hiện các nghiệp vụ sau này. Do do trong các hoạt động của NHTM rất cao nên khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ đem lại thu nhập đồng thời đảm bảo được khả năng thanh toán khi có yêu cầu với chi phí thấp nhất. Hay nói cách khác, ngân hàng phải đảm bảo có được một cơ cấu tài sản nợ cũng như cơ cấu tài sản có hợp lý.
-Thứ nhất là, hoạt động tạo vốn tự có : Như hầu hết cơ sở kinh doanh khác, để hoạt động kinh doanh được tiến hành cũng cần phải có một số vốn ban đầu và điều này đặc biệt đúng trong hoạt động ngân hàng. Tuỳ từng loại hình ngân hàng mà hoạt động này được hình thành như thế nào.
Đối với NHTM quốc doanh là do Nhà nước cấp đối với NHTM cổ phần là do các cổ đông đóng góp, đối với ngân hàng liên doanh là do các đơn vị liên doanh đóng góp.v.v... Vốn tự có của một NHTM ở mức dưới hoặc bằng 10% so với tổng tài sản có. Nguốn vốn này chiếm một phần không lớn trong tổng nguồn vốn nó lại giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của NHTM. Bởi đây là điều kiện cần và đủ để các NHTM hoạt động và là “tấm đệm” giúp các NHTM luôn cần quan tâm không ngừng tới việc tăng quy mô, tăng hiệu quả sử dụng vốn bằng cách trích lập các quỹ thích hợp như: quỹ dự trữ, quỹ bảo toàn vốn, quỹ dự phòng rủi ro... từ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, uy tín của một NHTM phần lớn thể hiện qua quy mô vốn tự có. Bở lẽ, khách hàng sẽ tín nhiệm NHTM nào có quy mô lớn với cách nghĩ rằng các NHTM có quy mô lớn sẽ đảm bảo độ an toàn cao hơn.
Xu hướng ngày nay, các NHTM tăng vốn bằng cách tích tụ và đẩy mạnh tập trung thông qua các hoạt động sáp nhập các NHTM với nhau.
-Tứ hai là , hoạt động huy động tiền gửi : như ta thấy, phân theo mục đích gửi tiền bao gồm: tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi giao dịch là khoản tiền mà chủ tài khoản có thể sử dụng với mục đích thanh toán cho khách hàng của họ thông qua phát hành séc hoặc chuyển khoản. Nó không những lớn mà còn là nguồn vốn rẻ nhấnt vì mục đích của các khoản tiền gửi này không phải là nhận lãi mà là nhằm sử dụng dịch vụ thanh toán qua hệ thống NHTM hoặc để giữ được tính lỏng cao nhất với mục đích riêng.
Tiền gửi tiết kiệm (hay còn gọi là tiền gửi phi thanh toán), là khoản tiền gửi mà chủ tài khoản này không dùng để thanh toán mà bù lại họ được hưởng một mức lãi suất thoả đáng. Nói chung, nguồn vốn này có chi phí cao hơn khoản tiền gửi giao dịch nhưng là nguồn vốn quan trọng, ổn định và đảm bảo cho NHTM chủ động trong việc sử dụng vốn.
Trong hoạt động huy động tiền gửi, ngân hàng căn cứ vào tính chất và đặc điểm của từng loại tiền gửi cũng như nhu cầu, tâm lý tiêu dụng của người dân, của các tổ chức kinh tế.v.v... để đưa ra những hình thức huy động khác nhau nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Nghiệp vụ huy động được xác định bởi các thể chế, quy định về thời gian về lãi suất, hình thức chi trả và hình thức tài khoản. Thông thường, các NHTM luôn luôn tìm cách cải tiến các hình thức huy động, đặc biệt là các hình thức gắn liền với lợi ích của người gửi tiền để tạo niềm tin đối với khách hàng.
-Thứ ba là, hoạt động đi vay: Các NHTM có thể chủ động đi vay để có vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Đây là nguồn vốn có chi phí huy động đắt nhất trong các nguồn vốn vay huy động của NHTM nhưng lại không thể thiếu trong quá trình kinh doanh. Hoạt động này giúp cho NHTM chủ động trong quá trình kinh doanh và trong việc đối phó với khó khăn phát sinh. NHTM thường đi vay Ngân hàng Nhà nước hoặc từ các tổ chức tín dụng khác.Thông thường quy mô và mục đích sử dụng đã được xác định trước. Ngoài ra, các NHTM có thể phát hành trái phiếu, vay của các tổ chức tín dụng nước ngoài, vay trên thị trường Liên ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thanh toán, nhu cầu tín dụng của khách hàng.v.v... ngày nay, vốn vay mượn đang trở thành bộ phận quan trọng trong hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM.
Ngoài ra, các NHTM có thể nhận được vốn uỷ thác từ Chính phủ, từ các tổ chức đầu tư quốc tế, các tổ chức nhân đạo.v.v... để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
2.2 Hoạt động sử dụng vốn.
Nếu như, hoạt động huy động vốn quyết định sự ra đời và điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện các hoạt động khác của NHTM thì hoạt động sử dụng vốn quyết định tới sự tồn tại và phát triển của NHTM. Hoạt động này mang phần lớn lợi nhuận cho các NHTM. Khi thực hiện hoạt động này, các ngân hàng phải đảm bảo có một cơ cấu tài sản hợp lý nhằm đạt được mức lợi nhuận cao nhất, đồng thời vẫn đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng của mình. Để thực hiện được mục tiêu này, các NHTM phải có chính sách đầu tư, tín dụng thích hợp, kết hợp quản lý tài sản quản lý nguồn vốn, tuân thủ theo quy định của pháp luật và sự hướng dẫn của ngân hàng Nhà nước. Hoạt động này bao gồm:
-Thứ nhất, hoạt động ngân quỹ: là hoạt động để đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên cho khách hàng của NHTM. Trên bảng cân đối tài sản, kết quả của hoạt động này được thể hiện ở khoản mục dự trữ. Có thể thấy, hầu hết các tài sản dự trữ đều không sinh lời hoặc có khả năng sinh lời thấp nhưng nó lại có tính lỏng rất cao, điều đó rất cần thiết cho hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, là mối quan hệ với chủ thể quản lý: Ngân hàng Nhà nước do thực hiện hoạt động ngân quỹ phải đảm bảo yêu cầu dự trữ bắt buộc (được ngân hàng Nhà nước sử dụng như là công cụ để quản lý và điều hành chính sách tiền tệ, quản lý hoạt động của Ngân hàng). Trong quản lý các nguồn ngân quỹ, các NHTM phải xác định được một cơ cấu, tỷ lệ dự trữ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán, tránh ứ đọng và lãng phí vốn. Hoạt động này nó bao gồm: nghiệp vụ quỹ tiền mặt, tiền gửi ở các ngân hàng khác và ở Ngân hàng trung ương, tiền trong quá trình thu nhận, và cũng có thể bao gồm cả nghiệp vụ về bán chứng khoán ngắn hạn.
-Hai là, hoạt động cho vay: Cùng với hoạt động đầu tư, hoạt động cho vay đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng thương mại. Nhưng đây là hoạt động quan trọng nhất, thể hiện là một trong các chức năng cơ bản của NHTM. Đó là, cho vay đối với nền kinh tế, qua đó thu được lợi nhuận cho mình. Tuy nhiên, đi kèm với thu nhập cao là tính lỏng kém và rủi ro lớn. Vì vậy, trong quản lý hoạt động cho vay cần xây dựng một chính sách tín dụng đúng đắn, phù hợp với điều kiện của ngân hàng, tuân thủ các nguyên tắc quản lý cho vay, quy trình nghiệp vụ tín dụng và triệt để tuân theo các quy định của pháp luật và của Ngân hàng Nhà nước về chất lượng tín dụng cũng như các quy định kiểm soát khác.
-Ba là, hoạt động đầu tư: Đây là nguồn thu lớn quan trọng thứ hai, sau hoạt động cho vay. NHTM đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn có tính thanh khoản cao (được coi như là một khoản dự trữ thứ cấp của NHTM) hoặc đầu tư vào chứng khoán có tính lưu hoạt thấp nhưng có kỳ hạn dài hơn để bù lại lợi ích đem lại cao hơn khoản mục trên bảng cân đối tài sản thể hiện kết quả hoạt động này. Trong hoạt động đầu tư, ngân hàng chủ động lựa chọn từ một loạt chứng khoán hiện có. Các NHTM thực hiện hoạt động này nhằm mục tiêu đa dạng lợi tức, lợi ích về thuế và trợ giúp về tính thanh khoản dự trữ thứ cấp. Các NHTM không thể cho vay hết các khoản vốn đã huy động về. Bởi lẽ, các NHTM phải đa dạng hoá đầu tư để giảm thiểu rủi ro. Các rủi ro có thể là: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất.v.v... Để đảm bảo thành công các ngân hàng phải có chính sách đầu tư đúng đắn để thu được mức lợi nhuận hợp lý, có được tính lỏng cao và hạn chế tối đa rủi ro.
2.3 Các hoạt động trung gian
Với tư cách là nhà trung gian môi giới, NHTM thực hiện dịch vụ cho khách hàng, trên cơ sở đó, NHTM thu được một khoản phí nhưng quan trọng hơn đó là việc tạo điều kiện để thu hút khách hàng, nhằm tăng khả năng cạnh tranh và thu hút được nhiều lợi nhuận hơn. Ngày nay, chính nghiệp vụ trung gian là cơ sở để đánh giá và phân loại các NHTM Chất lượng của các dịch vụ quyết định đến hình ảnh và uy tín của ngân hàng thương mại, là cơ sở để thắt chặt mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Đặc trưng là các hoạt động: thu-chi hộ, chuyển tiền, thanh toán, trung gian mua bán trên thị trường chứng khoán, uỷ thác, đấu thầu, tư vấn và các hoạt động khác như bảo hiểm, bảo quản tài sản quý, giấy tờ có giá.v.v...
Các NHTM ngày nay đã không ngừng tìm cách bành trướng phạm vi hoạt động của mình. Họ ra sức ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, trang bị những thiết bị tiên tiến nhất của công nghệ tin học vào các hoạt động nghiệp vụ. Sự lớn mạnh của NHTM cùng với quá trình quốc tế hoá đang ngày càng trở nên mạnh mẽ. Thêm vào đó khuynh hướng phát triển của các NHTM các ngân hàng đa năng cùng với dịch vụ tài chính và phi tài chính ngày càng đa dạng cộng với sự xâm nhập của các tổ chức phi tài chính, đã làm cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng gay gắt.
Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng đã không bó hẹp trong phạm vi nội bộ quốc gia mà mở rộng trên toàn thế giới, giữa các ngân hàng với nhau, giữa các ngân hàng với tổ chức phi tài chính và giữa các tổ chức này với nhau. Trong điều kiện như vậy, các NHTM phải chủ động quan tâm tới việc tìm ra nhu cầu và mong muốn đó. Việc sử dụng marketing đã và đang là một điều kiện tất yếu trong cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế hiện đại, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, vận dụng marketing, chuyên môn hoá kết hợp với kinh doanh đa năng được xem là xu hướng phát triển kinh doanh chính và cũng là để thắng trong môi trường cạnh tranh gay gắt của NHTM.
3.Vai trò của Ngân hàng đối với nền kinh tế
Ngân hàng không chỉ đóng vai trò trong nền kinh tế-nhận tiền gửi và cho vay - trên thực tế ngân hàng đã thực hiện nhiều vai trò để có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu xã hội, các ngân hàng ngày nay có những vai trò cơ bản sau:
- Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu tự hộ gia đình, thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác để đầu tư vào nhà cửa thiết bị và các tài sản khác.
- Vai trò thanh toán: thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán việc mua bán hàng hoá và dịch vụ (như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền giấy và tiền đúc).
- Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán (chẳng hạn phát hành thư tín dụng).
- Vai trò đại lý: thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán (thường được thực hiện tại văn phòng uỷ thác).
- Vai trò thực hiện chính sách: thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi mục tiêu xã hội.
II. Khái quát về cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng
1. Cạnh tranh là gì?
Cạnh tranh là hành động của một cá nhân hay tổ chức cố gắng để chiến thắng hoặc giành được công việc kinh doanh từ các đối thủ của mình.
Tương tự như vậy, cạnh tranh là sự tranh giành thị trường (khách hàng) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Như vậy, một nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi phải có cạnh tranh mà cạnh tranh theo nghĩa là tranh giành thị phần chỉ có trong khuôn khổ của kinh tế thị trường. Cạnh tranh được phân chia thành 2 loại: cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. Thị trường có cạnh tranh hoàn hảo là thị trường có quá nhiều người bán và người mua cùng một hàng hoá đồng nhất đến mức không ai có thể ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Nếu có ít nhất một người bán lớn đến mức có thể ảnh hưởng tới giá thị trường thì xảy ra cạnh tranh không hoàn hảo (tình trạng độc quyền): Độc quyền được biểu hiện dưới các dạng: độc quyền tuyệt đối (một ngành chỉ có duy nhất một nhà cung cấp); độc quyền nhóm (một ngành do một số ít nhà cung cấp chi phối) hay một dạng đặc biệt trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa: chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước (sự câu kết giữa một nhóm tài phiệt tư bản với nhà nước tư bản).
Để đạt được lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, những nhà kinh doanh phải thông qua cạnh tranh. Vì vậy, cạnh tranh trở thành một yếu tố không thể thiếu trong sự vận động của thị trường và là đối tượng của nhiều môn khoa học kinh tế và luật pháp.
2.Tính tất yếu của cạnh tranh đối với Ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa các NHTM là tất yếu khách quan. Cạnh tranh có một vai trò quan trọng trong hoạt động của các NHTM. Để tồn tại và phát triển trong một môi trường cạnh tranh gay gắt ngày càng cao, đòi hỏi các NHTM phải nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, áp dụng khoa học tiên tiến hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, chú trọng hơn nữa công tác marketing ngân hàng, nguồn nhân lực, đào tạo lại nguồn nhân lực hiện có để đáp ứng các yêu cầu đặt ra, phù hợp với công nghệ hiện đại, đồng thời đưa ra chính sách lãi suất (tín dụng, huy động vốn), biểu phí dịch vụ có tính cạnh tranh lành mạnh, hấp dẫn nhằm duy trì và mở rộng quan hệ với khách hàng cũng như việc chủ động tìm đến khách hàng, chủ động tìm kiếm dự án...
Mục tiêu quan trọng của NHTM là lợi nhuận, và việc cạnh tranh cũng làm tăng thêm hoặc ổn định thu nhập của ngân hàng. Vấn đề này buộc các NHTM phải chú ý nghiên cứu, thực hiện những biện pháp để tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất và hiệu quả lao động, mở rộng và phát triển các dịch vụ... Điều đó sẽ mang lại lợi ích cao cho bản thân các doanh nghiệp, dân chúng và xã hội, đồng thời tăng sức cạnh tranh cho các NHTM.
Cạnh tranh thúc đẩy các NHTM luôn đánh giá được đúng thực lực của mình, thấy được điểm mạnh, yếu của đối thủ cạnh tranh để tìm được biện pháp cạnh tranh hữu hiệu và chiến thắng trong môi trường cạnh tranh.
Cạnh tranh không chỉ đơn thuần là đối đầu nhau, chiến thắng tuyệt đối đối thủ của mình mà còn bao hàm vấn đề hợp tác giữa các NHTM với nhau, cạnh tranh trong xu thế hợp tác. Bởi lẽ để tồn tại và phát triển được các NHTM dựa vào sức mình là chính. Nhưng đôi khi cũng cần có sự hợp tác với nhau để cùng giải quyết những vấn đề chung của ngành, của hệ thống, cùng hợp tác trong hoạt động kinh doanh. Cụ thể là đối với những dự án hay hợp đồng tín dụng lớn một NHTM không thể thực hiện được, mà cần phải có sự chung sức của các NHTM, cùng nhau cho vay theo quy chế, đồng tài trợ, hoặc vấn đề điều hoà vốn nội bộ trong hệ thống liên ngân hàng, tham gia là thành viên của Hiệp hội ngân hàng, tham gia thanh toán bù trừ, thông tin tín dụng...
Tuy nhiên cạnh tranh giữa các Ngân hàng diễn ra rất gay gắt và khốc liệt, đôi khi dẫn tới sự thiếu bình tĩnh trong hoạt động giữa các ngân hàng làm cho môi trường cạnh tranh không lành mạnh. Tạo ra nhiều khe hở cho các biểu hiện tiêu cực về kinh tế dẫn đến tình trạng “cá lớn nuốt cá bé” cũng như các yếu tố làm cho thị trường tài chính dễ biến động. Có nguy cơ làm giảm tiềm lực sức mạnh của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
3. Khái niệm khả năng cạnh tranh trong hoạt động của NHTM
Ngân hàng hoạt động chịu sự tác động của một số yếu tố trong đó không thể không kể đến môi trường hoạt động của bản thân các ngân hàng. Ngành ngân hàng các nước phát triển theo những phương thức không hoàn toàn giống nhau, tuy nhiên luôn tồn tại một lực lượng quan trọng là ngân hàng Nhà nước hay ngân hàng trung ương điều hành mọi hoạt động về mặt chính sách của khối ngân hàng nói chung. Các NHTM có thể thuộc nhà nước hay do tư nhân lãnh đạo dưới hình thức hội đồng quản trị nhưng đều liên quan mật thiết đến mọi hoạt động của nền kinh tế và không chỉ một ngân hàng có thể tạo nên thị trường mà cần có sự tham gia hoạt động của các ngân hàng khác. Nơi đâu có dân cư và sản xuất kinh doanh, nơi đó có ngân hàng. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính phi ngân hàng ngày càng phát triển đang đặt các ngân hàng vào một tình thế khó khăn: những nghiệp vụ trước kia do ngân hàng đảm nhận nay được các tổ chức khác thực hiện dưới những hình thức ngày càng đa dạng và phong phú hơn, hướng tới những thị trường mà ngân hàng đã bỏ ngỏ. Rõ ràng ngân hàng đang phải cùng lúc cạnh tranh với nhiều lực lượng: các ngân hàng trong cùng khối và các tổ chức tài chính phi ngân hàng có những thế mạnh riêng.
Có thể nói, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng là sự nỗ lực hoạt động đồng bộ của ngân hàng trong một lĩnh vực khi cung ứng cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao nhằm khẳng định vị trí của ngân hàng vượt lên khỏi các ngân hàng khác trong cùng lĩnh vực hoạt động ấy.
Sức mạnh đồng bộ của toàn bộ ngân hàng được phát huy khi ngân hàng tận dụng được hết những khả năng sẵn có của mình để nâng cao vị thế cạnh tranh. Mỗi ngân hàng đều có những lợi thế riêng và đều có khả năng tận dụng những lợi thế ấy nếu có những nhận thức thực sự hiệu quả và đúng đắn, tức là mỗi ngân hàng đều có khả năng phát triển mạnh mẽ hơn. Nói cách khác, khả năng cạnh tranh của ngân hàng được đánh giá như một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh khả năng kết hợp các lợi thế cạnh tranh mà ngân hàng đang có để biến đổi thành những công cụ hữu hiệu trong việc khẳng định vị trí của ngân hàng trên thị trường.
4. Biểu hiện khả năng cạnh tranh của NHTM
4.1 Ưu thế cạnh tranh và sự vận dụng vào hoạt động của NHTM
- Trước hết, ưu thế cạnh tranh do địa điểm, vị trí hoạt động có nhiều thuận lợi. Tất cả các nhà quản lý ngân hàng đều nhận thức những vấn đề này, Tuy nhiên, việc lựa chọn được một địa điểm kinh doanh tốt không phải là việc dễ dàng. Nếu một ngân hàng thương mại đặt trụ sở ở gần một ngân hàng thương mại khác có nhiều ưu thế hơn, hoặc nơi đặt trụ s