Các nguyên lý về lập kế hoạch

Bài đọc này nhằm hệ thống hoá lại các lý luận giải thích cho vai trò của kế hoạch như một công cụ quản lý cần thiết trong nền kinh tế, không phân biệt hình thức tổ chức của nền kinh tế đó. Tuy nhiên, khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường thì phương thức kế hoạch hoá tập trung như trước đây không còn phù hợp nữa, mà nó đòi hỏi phải có sự thay thế bằng một phương thức lập kế hoạch mới. Vì vậy, phần đầu bài đọc tập trung làm rõ sự khác biệt của công tác KHH trong hai cơ chế cũ và mới, đồng thời giới thiệu kinh nghiệm lập KH của một số nước. Phần thứ hai đi sâu vào cơ sở đổi mới KH hiện nay, đó là hướng chuyển sang phương thức quản lý theo kết quả. Từ đó làm rõ các xu hướng đổi mới KHH hiện nay ở nước ta. Phần cuối bài đọc gới thiệu chi tiết các bước để lập KH theo khung logic hay còn gọi là lập KH theo kết quả.

doc72 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2394 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các nguyên lý về lập kế hoạch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI 1 CÁC NGUYÊN LÝ VỀ LẬP KẾ HOẠCH Th.S. Vũ Cương Đại học Kinh tế Quốc dân Bài đọc này nhằm hệ thống hoá lại các lý luận giải thích cho vai trò của kế hoạch như một công cụ quản lý cần thiết trong nền kinh tế, không phân biệt hình thức tổ chức của nền kinh tế đó. Tuy nhiên, khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường thì phương thức kế hoạch hoá tập trung như trước đây không còn phù hợp nữa, mà nó đòi hỏi phải có sự thay thế bằng một phương thức lập kế hoạch mới. Vì vậy, phần đầu bài đọc tập trung làm rõ sự khác biệt của công tác KHH trong hai cơ chế cũ và mới, đồng thời giới thiệu kinh nghiệm lập KH của một số nước. Phần thứ hai đi sâu vào cơ sở đổi mới KH hiện nay, đó là hướng chuyển sang phương thức quản lý theo kết quả. Từ đó làm rõ các xu hướng đổi mới KHH hiện nay ở nước ta. Phần cuối bài đọc gới thiệu chi tiết các bước để lập KH theo khung logic hay còn gọi là lập KH theo kết quả. MỤC LỤC I. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA KẾ HOẠCH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VỚI PHƯƠNG THỨC KẾ HOẠCH HOÁ TRUYỀN THỐNG VÀ KINH NGHIỆM LẬP KẾ HOẠCH CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 4 1. Sự cần thiết của KHH trong nền kinh tế thị trường 4 1.1. KH là một trong các công cụ quản lý nhà nước vào nền kinh tế thị trường 4 1.2. KH là công cụ huy động và phân bổ nguồn lực khan hiếm nhằm thực hiện các mục tiêu ưu tiên 5 1.3. KH là công cụ để Chính phủ công bố các mục tiêu phát triển của mình và huy động nguồn lực xã hội cùng hướng tới đạt mục tiêu 5 1.4. KH là một công cụ để thu hút được các nguồn tài trợ từ nước ngoài 6 2. Sự khác biệt giữa KH trong nền kinh tế thị trường với KH trong cơ chế tập trung mệnh lệnh 6 2.1. Sự khác biệt về bản chất 6 2.2. Sự khác nhau về hệ thống chỉ tiêu KH 10 2.3. Sự khác biệt trong trình tự xây dựng KH 12 3. Kinh nghiệm lập KH của một số nước kinh tế thị trường phát triển 13 3.1. Mỹ 13 3.2. Nhật Bản 14 3.3. Hàn Quốc 15 3.4. Philipines 16 II. QUẢN LÝ THEO KẾT QUẢ - CƠ SỞ KHOA HỌC CHO HƯỚNG ĐỔI MỚI CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH TẠI VIỆT NAM 17 1. Phương thức quản lý theo kết quả 17 1.1. Sự cần thiết phải chuyển sang quản lý theo kết quả 17 1.2. Khái niệm về chuỗi kết quả và các cấp độ kết quả trong KH 19 1.3. Vai trò của phương thức quản lý theo kết quả 21 2. Những tiếp cận mới trong công tác lập KH ở Việt Nam hiện nay 22 2.1. KH mang tính chiến lược 23 2.2. KH gắn với nguồn lực 24 2.3. KH mang tính lồng ghép 25 III. KẾ HOẠCH NGÀNH VÀ TIỂU NGÀNH TRONG HỆ THỐNG KẾ HOẠCH HÓA KINH TẾ QUỐC DÂN 26 1. Phân loại kế hoạch 26 1.1. Phân loại theo mức độ khái quát 27 1.2. Phân loại theo cấp độ quản lý 28 2. Mối quan hệ giữa KH ngành và tiểu ngành 29 IV. PHƯƠNG PHÁP LẬP KẾ HOẠCH THEO KHUNG LOGIC 31 1. Hai giai đoạn chính của phương pháp lập KH theo Khung Logic 31 2. Giai đoạn Phân tích 33 2.1. Chuẩn bị phân tích 33 2.2. Phân tích các bên liên quan 33 2.3. Phân tích tiềm năng, đánh giá thực trạng phát triển 35 2.4. Phân tích vấn đề 48 2.5. Phân tích mục tiêu 51 2.6. Phân tích chiến lược 52 3. Giai đoạn hoạch định 56 3.1. Giới thiệu 56 3.2. Miêu tả khung lôgic 58 3.3. Quy trình xây dựng khung lôgic 62 Tình huống minh hoạ: Soạn thảo và trình bày chỉ tiêu 68 I. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA KẾ HOẠCH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VỚI PHƯƠNG THỨC KẾ HOẠCH HOÁ TRUYỀN THỐNG VÀ KINH NGHIỆM LẬP KẾ HOẠCH CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Sự cần thiết của KHH trong nền kinh tế thị trường KH là một trong các công cụ quản lý nhà nước vào nền kinh tế thị trường Trước tiên, cần thấy rằng sự tồn tại của kế hoạch hoá xuất phát từ vai trò tất yếu của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Như chúng ta đều biết, một nền kinh tế thị trường dù hoàn hảo đến đâu vẫn không thể vận hành mà không có sự điều tiết, quản lý của nhà nước. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường tồn tại như một tất yếu khách quan, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế của xã hội muốn có một cơ chế điều tiết bổ trợ cho cơ chế thị trường, nhằm vừa tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế thị trường phát huy được những mặt mạnh của mình, vừa hạn chế được những hậu quả khắc nghiệt mà cơ chế đó tạo ra. Đối với nước ta, vai trò quản lý nhà nước càng hết sức quan trọng, vì Đảng ta đã xác định mô hình kinh tế của Việt Nam là phát triển cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN. Như vậy, ngoài các chức năng cơ bản khác, nhà nước Việt Nam còn có sứ mệnh định hướng con đường phát triển của đất nước theo các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sứ mệnh này được cụ thể hoá bằng nhiệm vụ quản lý nhà nước của các cấp, các ngành, trong đó cấp ngành đóng vai trò quan trọng. Vậy, nhà nước sử dụng những công cụ gì để quản lý nền kinh tế? Để thực hiện vai trò của mình, nhà nước có thể sử dụng các nhóm công cụ chủ yếu sau: (1) Hệ thống luật pháp; (2) Hệ thống kế hoạch phát triển; (3) Các chính sách kinh tế điều tiết (tài khoá, tiền tệ, thương mại, đầu tư…); (4) Các công cụ đòn bẩy kinh tế (thuế, trợ cấp, trợ giá…) và (5) Lực lượng kinh tế của nhà nước (doanh nghiệp nhà nước, dự trữ quốc gia…). Ở cấp ngành cũng áp dụng được các công cụ trên, nhưng được cụ thể hoá theo chức năng nhiệm vụ đã được phân cấp cho ngành. Ví dụ, ngành cũng có thể đề ra cơ chế, chính sách trong phạm vi quyền hạn của mình như chính sách cải cách hành chính, phân bổ có mục tiêu… Ngành cũng sử dụng công cụ kế hoạch hoá ngành (công nghiệp, nông nghiệp, thương mại dịch vụ, giáo dục, y tế…) để điều hành nền kinh tế trong phạm vi được phân cấp… Như vậy, hệ thống kế hoạch phát triển là một công cụ quản lý của nhà nước để điều tiết nền kinh tế. Do đó, bất cứ khi nào còn nhà nước thì nhà nước còn sử dụng công cụ quản lý này. Do đó, quan điểm cho rằng kế hoạch là sản phẩm của cơ chế tập trung bao cấp, còn cơ chế thị trường không cần có kế hoạch là hoàn toàn sai lầm. Một cá nhân khi làm một công việc gì có ý thức đều cần có kế hoạch. Một gia đình cũng phải có kế hoạch chi tiêu, giáo dục con cái… Do đó, không có lý do gì để nói rằng lãnh đạo một ngành hay một quốc gia lại không cần có kế hoạch. Chỉ có điều khi điều kiện kinh tế xã hội thay đổi thì công cụ đó cũng cần được đổi mới cả về tư duy, nội dung và phương pháp. Đặc trưng của nhóm công cụ này khác với các nhóm khác là ở chỗ đây là phương pháp quản lý nền kinh tế của nhà nước theo mục tiêu. Nó thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát triển KTXH phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia, một vùng, một ngành hay một địa phương, và những giải pháp chính sách cần thiết để đạt mục tiêu với hiệu quả và hiệu lực cao nhất. KH là công cụ huy động và phân bổ nguồn lực khan hiếm nhằm thực hiện các mục tiêu ưu tiên Chúng ta luôn nằm trong tình trạng khan hiếm nguồn lực, nhất là: vốn, lao dộng có tay nghề và công nghệ kỹ thuật tiên tiến. Nếu cứ để thị trường điều tiết, các nguồn lực này sẽ hướng vào việc sản xuất các hàng hoá nhiều lợi nhuận và mang tính trước mắt, ngắn hạn, phục vụ chủ yếu cho nhu cầu của những người giầu trong xã hội, đó là những hàng hoá xa xỉ. Các nguồn lực không thể huy động được vào những vùng sâu, vùng xa hoặc hoạt động trong những lĩnh vực mà xã hội cần có. Vì vậy, nếu các nguồn lực khan hiếm được phân bổ theo KH, nó sẽ bảo đảm hướng được vào các vấn đề mang tính bức xúc mà xã hội cần có, hướng vào người nghèo và những tầng lớp yếu thế trong xã hội; các nguồn lực khan hiếm được phân bổ phù hợp với nhu cầu trong dài hạn của đất nước và địa phương. KH là công cụ để Chính phủ công bố các mục tiêu phát triển của mình và huy động nguồn lực xã hội cùng hướng tới đạt mục tiêu Sự công bố cụ thể về những mục tiêu xã hội và kinh tế quốc gia hoặc của một địa phương dưới dạng một KHPT cụ thể có những ảnh hưởng quan trọng về thái độ hay tâm lý đối với dân cư. Nó có thể thành công trong việc tập hợp dân chúng đằng sau chính phủ trong một chiến lược quốc gia để xoá bỏ nghèo đói. Bằng việc huy động sự ủng hộ của quần chúng và đi sâu vào các tầng lớp xã hội, các đảng phái, tôn giáo để yêu cầu mọi công dân đều cùng nhau là việc để xây dựng đất nước. Nhà nước (các cấp) khi có một KH kinh tế được coi là được trang bị tốt nhất để đảm bảo những động lực cần thiết để vượt qua những lực cản và thường hay chia rẽ của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa truyền thống trong một yêu cầu chung đòi hỏi tiến bộ xã hội và cuộc sống ấm no cho mọi người. KH là một công cụ để thu hút được các nguồn tài trợ từ nước ngoài Nếu chúng ta có những KHPT cụ thể với những mục tiêu đặt ra cụ thể và những dự án được thiết kế cẩn thận, đó thường là một điều kiện cần thiết để nhận được sự ủng hộ của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Trong một chừng mực nhất định việc mô tả dự án tỷ mỷ và cụ thể trong khuôn khổ một KHPT toàn diện càng nhiều bao nhiêu thì mong muốn của các địa phương về việc tìm kiến nguồn vốn từ bên ngoài càng nhiều bấy nhiêu. Thực tế qua Hội nghị các nhà tài trợ vừa qua đã cho thấy, nhờ Chính phủ Việt Nam đã có một lộ trình rõ ràng và thể hiện rõ quyết tâm trong cải cách bộ máy hành chính nên Việt Nam đã nhận được sự cam kết tài trợ lớn nhất từ trước đến nay từ cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế. Những lập luận trên đây đã khẳng định sự cần thiết của KH với tư cáh là công cụ quản lý nhà nước vào nền kinh tế thị trường. Điều này không ngoại lệ, thậm chí là có phần quan trọng hơn đối với quản lý nhà nước trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam. Bởi vì đây là lĩnh vực có nhiều yếu tố thất bại của thị trường, nhiều lĩnh vực cần phải có sự phân bổ nguồn lực theo kế hoạch, nhiều yếu tố cần thiết để tạo sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư, và một yếu tố nũa đó là ở VN bộ phận nông nghiệp và nông thôn còn chiếm không dưới 70% dân số và lao động cả nước. Sự khác biệt giữa KH trong nền kinh tế thị trường với KH trong cơ chế tập trung mệnh lệnh Sự khác biệt về bản chất Xét về bản chất, KH là thể hiện sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế nhằm định hướng phát triển và điều khiển sự biến đổi một số biến số KTXH chủ yếu để đạt được mục tiêu đã định trước. Biểu hiện cụ thể của bản chất này: trước hết là thể hiện ở một loạt các mục tiêu KTXH cần đạt được trong một khoảng thời gian đã định sẵn; kế tiếp là cách thức tác động, hướng dẫn, điều khiển của Chính phủ để thực hiện mục tiêu đặt ra. Bản chất của KHH là giống nhau nhưng biểu hiện cụ thể của nó lại khác nhau trong mỗi nền kinh tế. Trong nền kinh tế tập trung mệnh lệnh, KHH thể hiện ở sự khống chế trực tiếp của Chính phủ đối với những hoạt động KTXH thông qua quá trình đưa ra những quyết định pháp lệnh phát ra từ Trung ương. Các chỉ tiêu KH được xác định bởi các nhà KH Trung ương tạo nên một KH kinh tế quốc dân toàn diện và đầy đủ; nguồn nhân lực, vật tư chủ yếu và tài chính không phải được phân phối theo giá thị trường và điều kiện cung cầu mà phân phối theo các nhu cầu của KH tổng thể, theo những quyết định hành chính của các cấp lãnh đạo. Trong nền kinh tế thị trường, KHH là thể hiện sự nỗ lực có ý thức của Chính phủ trong quá trình thực hiện sự can thiệp ở tầm vĩ mô nền kinh tế quốc dân, trên cơ sở chủ động thiết lập mối quan hệ giữa khả năng và mục đích nhằm đạt được mục tiêu sử dụng có hiệu quả nhất những tiềm năng hiện có. KHH trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở các phương án lựa chọn, sắp xếp, khai thác và huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho phép để đạt được kết quả cao nhất. Các chỉ tiêu đặt ra trong KH là những định hướng phát triển một số lĩnh vực chủ yếu và cánh thức tác động của Chính phủ mang tính gián tiếp thông qua các chính sách định hướng và các công cụ của chính sách điều tiết vĩ mô. Như vậy, bản chất của KHH phát triển trong nền kinh tế thị trường là tính thuyết phục gián tiếp. Bảng 1: So sánh bản chất của KH trong cơ chế KHH tập trung và cơ chế thị trường Cơ chế KH hoá tập trung  Cơ chế thị trường   KH mang tính chủ quan duy ý chí: xuất phát từ ý muốn chủ quan của nhà nước, không căn cứ vào tiềm lực thực tế và không gắn với nhu cầu thực sự của nền kinh tế quốc dân  KH gắn với thị trường: định hướng sự phát triển dựa trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng (=> khả thi), nhận thức được qui luật (=> khoa học), nắm bắt được nhu cầu (=> thực tiễn), vì thế => vững chắc hơn   KH thay thế cho thị trường, vì sự tồn tại của thị trường sẽ phá vỡ những cân đối cứng mà KH đã đề ra.  KH bổ sung hỗ trợ cho thị trường: thị trường chỉ giải quyết vấn đề ngắn hạn, riêng lẻ, vì lợi ích cục bộ. KH có cái nhìn dài hạn, mang tính đón bắt, vì lợi ích chung, toàn cục.   KH mang tính mệnh lệnh: giao chỉ tiêu và cấp phát nguồn lực, đồng thời chỉ định cả địa chỉ tiêu thụ  KH mang tính định hướng: Hoạt động như bộ khung làm cơ sở để hoạch định các chính sách đòn bẩy và các biện pháp gián tiếp để thực hiện định hướng   KH thiếu tính linh hoạt: vì là pháp lệnh nên mang tính cứng nhắc, mọi sự điều chỉnh KH chỉ là hình thức.  KH mang tính linh hoạt. Khi các điều kiện thị trường thay đổi thì KH cũng sẽ có sự điều chỉnh theo.   Chính vì sự khác biệt về bản chất đó của KH trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự đổi mới cơ bản công tác KHH, từ tư duy đến qui trình và phương pháp lập KH. Việt nam hiện nay đang thực hiện quá trình cải cách kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công tác KH cũng đang được chuyển đổi phù hợp từ cơ chế KH tập trung sang KH định hướng phát triển, với ba nội dung chủ yếu: Thứ nhất, chuyển từ cơ chế KHH tập trung phân bổ nguồn lực cho nền kinh tế bao gồm hai thành phần sở hữu quốc doanh và tập thể là chủ yếu sang cơ chế KHH theo phương thức khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho nền kinh tế đa thành phần sở hữu. Thứ hai, chuyển từ cơ chế KHH trực tiếp mang tính pháp lệnh với hệ thống chằng chịt các chỉ tiêu mang tính chất bao cấp cả đầu vào lẫn đầu ra sang cơ chế KHH định hướng gián tiếp với hệ thống cơ chế chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp. Thứ ba, chuyển từ cơ chế KHH hiện vật, mang tính chất khép kín trong từng ngành, từng địa phương sang cơ chế KHH theo chương trình mục tiêu với sự kết hợp hài hoà giữa các ngành, các vùng, cả bên trong lẫn bên ngoài theo hướng tối ưu hoá và hiệu quả các hoạt động KTXH. Sự khác biệt trong bản chất kế hoạch hóa dẫn đến sự khác biệt trong bản chất của qyá trình soạn lập các bản kế hoạch. Thể hiện sự khác biệt này đuợc phản ánh qua bảng sau: Bảng 2. So sánh đặc trưng cơ bản của hai quá trình lập kế hoạch Đặc trưng  Lập KH theo phương pháp truyền thống  Lập kế hoạch thị trường   Thực chất hoạt động  Quá trình phân chia nguồn lực nhà nước và tiếp nhận nhiệm vụ từ cấp trên giao, kế hoạch của địa phương là triển khai một phần kế hoạch của cấp trên.  Chủ động thiết lập các mối quan hệ để hướng tới tương lai, xác định mục tiêu và tìm kiếm giải pháp phát triển KTXH cho chính ngành, địa phương. KH ngành, địa phương xây dựng là kế hoạch của ngành, địa phương, xây dựng cho chính họ , do ngành, địa phương tự quyết định trên cơ sở không phá vỡ khung định hướng chung của cấp trên.   Căn cứ chính cho kế hoạch  Nguồn lực do cấp trên cung cấp Con số kiểm tra kế hoạch cấp trên. Kiểm điểm tình hình thực hiện kế hoạch thời kỳ trước.  Đánh giá tiềm năng, các yếu tố nguồn lực và thực trạng phát triển ngành, địa phương. Dự báo các yếu tố, môi trường bên trong, bên ngoài ngành, địa phương, tạo ra những điểm mạnh, yếu, cơ hội, thách thức tác động đến khả năng khai thác huy động nguồn lực, thực hiện mục tiêu. Thực hiện các mục tiêu quốc gia trong thời gian dài.   Nội dung chính của kế hoạch  Phân chia cơ học kế hoạch trung hạn thành các kế hoạch ngắn hạn. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu toàn diện trong khoảng thời gian cụ thể phải thực hiện theo yêu cầu của cấp trên. Quan tâm đến có thực hiện được chỉ tiêu cấp trên giao cho trong ngắn hạn hay không  Hướng tới tương lai trung và dài hạn. Quan tâm chủ yếu đến xác định Tầm nhìn, hướng đi và mục tiêu đạt tới của địa phương trong tương lai dài. Là quá trình tự ra quyết định mang tính hệ thống nhưng tập trung vào các vấn đề quan trọng, các mục tiêu ưu tiên. Quan tâm nhiều hơn đến tác động của việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch đến mục tiêu và tầm nhìn mà ngành, địa phương hướng tới. Quan tâm nhiều đến công tác TDĐG.   Quy trình soạn lập  Xây dựng một lần, mang tính thời vụ, các bước xây dựng theo thể chế thống nhất, có định kỳ điều chính kế hoạch.  Quy trình xây dựng mang tính chất lặp lại cao, không mang tính thời vụ, theo sự biến động của điều kiện môi trường và khả năng khai thác nguồn lực. Khoảng thời gian thực hiện các bước trong xây dựng không giống nhau, tuỳ theo đặc điểm của mỗi ngành, địa phương.   Giải pháp nguồn lực  Nguồn lực cấp trên cung cấp là chủ yếu  Chủ động tạo dựng khả năng khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồnlực của mọi thành phần kinh tế, bên trong và bên ngoài ngành, địa phương   Phương pháp xây dựng và điều kiện áp dụng  Chủ yếu cơ chế từ trên xuống Dựa vào cơ chế tập trung hoá cao về tư liệu sản xuất và nguồn lực xã hội. Nguồn vốn ngân sách nhà nước là điều kiện cơ bản quyết định sự thành công trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch  Sử dụng sự tham gia của nhiều bên trong quá trình soạn lập kế hoạch, vai trò chủ động, sáng tạo của chính quyền nhà nước các cấp; đặc biệt nhấn mạnh đến là sự tham gia của cộng đồng dân cư Cơ chế phi tập trung, phân cấp, giao quyền chủ động cho các ngành, địa phương. Đặc biệt nhân mạnh sự phân cấp kế hoạch, phân cấp ngân sách và nâng cao quyền lực   Sự khác nhau về hệ thống chỉ tiêu KH Theo góc độ nội dung KHH, hệ thống chỉ tiêu KH được phân thành: Các chỉ tiêu kinh tế. Hệ thống này bao gồm các mục tiêu về kinh tế cần đạt được như tốc độ tăng trưởng GDP, chuyển dịch cơ cấu ngành, các mục tiêu phát triển vùng và các chỉ tiêu mang tính chất biện pháp như các yếu tố nguồn lực cần thiết cho tăng trưởng, các cân đối vĩ mô chủ yếu cần duy trì trong thời kỳ KH. Các chỉ tiêu xã hội bao gồm các chỉ tiêu về nâng cao phúc lợi xã hội, mức sống đân cư, các chỉ tiêu chất lượng cuộc sống, môi trường tự nhiên và xã hội, chỉ tiêu xoá đói giảm nghèo (XĐGN), công bằng xã hội v.v... Các chỉ tiêu lồng ghép các vấn đề xã hội trong phát triển kinh tế. Theo khía cạnh lồng ghép, cả nội dung kinh tế và xã hội đều được phản ánh trong một chỉ tiêu, các mục tiêu kinh tế và xã hội ràng buộc lẫn nhau hoặc mục tiêu xã hội đặt nhiệm vụ cho kinh tế phải giải quyết. Theo lịch sử KHH ở các nước, trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, các KHPT thường tập trung chủ yếu vào các chỉ tiêu kinh tế nhằm mục đích thúc đẩy quá trình tăng trưởng sản xuất và dịch vụ. Khi nền kinh tế đã phát triển đến một mức độ nhất định, các mục tiêu xã hội ngày càng được chú trọng nhiều hơn và một xu thế mới là xây dựng các chỉ tiêu mang tính chất lồng ghép.Việc lồng ghép các biến xã hội trong các chỉ tiêu kinh tế, hoặc là một biến xã hội này lồng trong một chỉ tiêu xã hội khác có nhiều tác dụng sẽ cho phép thống nhất được các mục tiêu kinh tế và xã hội, bảo đảm sự ràng buộc lẫn nhau giữa các nội dung kinh tế và xã hội có liên quan, thực hiện thống nhất quá trình điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đứng trên góc độ tính chất quản lý, hệ thống chỉ tiêu KH được chia thành: Các chỉ tiêu pháp lệnh. Đây là các chỉ tiêu sau khi xây dựng được giao cho một đối tượng và địa chỉ cụ thể mang tích chất bắt buộc phải thực hiện. Thông thường các chỉ tiêu pháp lệnh sau khi giao cho các cấp thực hiện có kèm theo thể chế quy định trách nhiệm cụ thể. Các chỉ tiêu hướng dẫn thường là các con số mang tính chất định hướng, thuyết phục, thương lượng, thảo luận nhằm hướng nền kinh tế theo một mục tiêu nào đó và tạo điều kiện chủ động khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho phát triển. Các chỉ tiêu dự báo do cơ quan KHH quốc gia xây dựng nhằm dự báo các chỉ tiêu vĩ mô cơ bản mang tính chất dài và trung hạn như lạm phát, thất nghiệp, dân số, phát triển khoa học công nghệ trong và ngoài nước, dự báo biến động thị trường và giá cả, cung, cầu v.v...