Xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế đã mở ra cho nhân loại cánh cửa giao lưu đầy triển vọng. Lịch sử đã chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể phát triển trong sự tách biệt với thế giới bên ngoài, các nước đang xích lại gần nhau thông qua chiếc cầu nối thương mại quốc tế. Vượt qua không gian và thời gian, những luồng chu chuyển hàng hóa, dịch vụ và tiền tệ đã tạo ra sự gắn kết bền vững giữa cung và cầu ở những nước có trình độ kinh tế khác nhau và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng kéo theo sự phức tạp ngày càng lớn trong mắt xích cuối cùng của quá trình trao đổi, thanh toán quốc tế. Được xem là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế, hoạt động thanh toán quốc tế đã không ngừng được đổi mới và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu an toàn, thuận tiện và nhanh chóng của các giao dịch thương mại.
Cùng với xu hướng hội nhập ngày càng tăng, các mối giao lưu thương mại cũng ngày càng được mở rộng. Điều đó đặt ra cho các ngân hàng thương mại phải phát triển các dịch vụ kinh tế đối ngoại một cách tương ứng, trong đó không thể không kể đến hoạt động thanh toán quốc tế với nhiều phương thức thanh toán đa dạng và phong phú như: chuyển tiền, ghi sổ, nhờ thu, tín dụng chứng từ. Trong các phương thức thanh toán này, tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến nhất do những ưu việt của nó, nó đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia. Song tín dụng chứng từ không phải là nghiệp vụ đơn giản, trong thực tế công tác này đã gặp phải không ít những rủi ro gây thiệt hại cả về tài chính lẫn uy tín cho các ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp Việt Nam.
22 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4486 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế đã mở ra cho nhân loại cánh cửa giao lưu đầy triển vọng. Lịch sử đã chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể phát triển trong sự tách biệt với thế giới bên ngoài, các nước đang xích lại gần nhau thông qua chiếc cầu nối thương mại quốc tế. Vượt qua không gian và thời gian, những luồng chu chuyển hàng hóa, dịch vụ và tiền tệ đã tạo ra sự gắn kết bền vững giữa cung và cầu ở những nước có trình độ kinh tế khác nhau và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng kéo theo sự phức tạp ngày càng lớn trong mắt xích cuối cùng của quá trình trao đổi, thanh toán quốc tế. Được xem là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế, hoạt động thanh toán quốc tế đã không ngừng được đổi mới và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu an toàn, thuận tiện và nhanh chóng của các giao dịch thương mại.
Cùng với xu hướng hội nhập ngày càng tăng, các mối giao lưu thương mại cũng ngày càng được mở rộng. Điều đó đặt ra cho các ngân hàng thương mại phải phát triển các dịch vụ kinh tế đối ngoại một cách tương ứng, trong đó không thể không kể đến hoạt động thanh toán quốc tế với nhiều phương thức thanh toán đa dạng và phong phú như: chuyển tiền, ghi sổ, nhờ thu, tín dụng chứng từ. Trong các phương thức thanh toán này, tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến nhất do những ưu việt của nó, nó đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia. Song tín dụng chứng từ không phải là nghiệp vụ đơn giản, trong thực tế công tác này đã gặp phải không ít những rủi ro gây thiệt hại cả về tài chính lẫn uy tín cho các ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp Việt Nam.
Thực trạng trên cho thấy việc phát hiện, phòng ngừa những rủi ro trong thanh toán quốc tế đặc biệt là thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ là một việc làm cần thiết mà các Ngân hàng Thương mại cũng như các doanh nghiệp Việt Nam phải quan tâm chú trọng.
Phần I: Khái Quát
Thanh toán quốc tế và các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu:
1.1. Khái niệm thanh toán quốc tế (TTQT)
Dưới giác độ kinh tế, TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc tế trong quan hệ thanh toán giữa các nước. Trong quan hệ đó, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ mà các bên phải đề ra để giải quyết và thực hiện được quy định lại thành những điều kiện gọi là các điều kiện thanh toán quốc tế sau:
Điều kiện về tiền tệ
Điều kiện về địa điểm
Điều kiện về thời gian
Điều kiện về phương thức thanh toán
Điều kiện về đảm bảo hối đoái
Những điều kiện này được thể hiện trong các điều khoản thanh toán của hiệp định trả tiền ký kết giữa các nước, các hiệp định thương mại, các hợp đồng mua bán ngoại thương ký kết giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu.
1.2. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu:
Phương thức TTQT là việc tổ chức quá trình trả tiền hàng trong giao dịch mua bán ngoại thương giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu. Thực chất phương thức thanh toán là cách thức người bán thu tiền còn người mua trả tiền.
Trong buôn bán Quốc tế có thể lựa chọn nhiều phương thức thanh toán khác nhau. Tuy vậy, việc lựa chọn các phương thức đều phải xuất phát từ nhu cầu của người bán, thu tiền nhanh, đầy đủ và từ yêu cầu của người mua là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng thời hạn đã ghi trong hợp đồng.
Trong ngoại thương có 4 phương thức thanh toán quốc tế sau thường được áp dụng bao gồm:
Phương thức chuyển tiền ( Remittance )
Phương thức ghi sổ ( Open account )
Phương thức nhờ thu ( Collection of payment )
+ Nhờ thu phiếu trơn ( clean collection )
+ Nhờ thu kèm chứng từ ( documentary collection )
Phương thức tín dụng chứng từ ( Documentary credit )
Hiện nay, phương thức tín dụng chứng từ là phương thức được áp dụng phổ biến nhất trong TTQT.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:
2.1. Khái niệm
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận, trong đó một Ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (Người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định của thư tín dụng.
Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có:
- Người yêu cầu mở thư tín dụng là Người nhập khẩu hoặc là người nhập khẩu ủy thác cho một người khác.
- Ngân hàng phát hành thư tín dụng là Ngân hàng của người nhập khẩu, nó cấp tín dụng cho người nhập khẩu.
- Người hưởng lợi thư tín dụng là người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà Người hưởng lợi chỉ định.
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng là ngân hàng đại lý của ngân hàng phát hành ở nước người hưởng lợi.
2.2. Quy trình nghiệp vụ phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:
(8) (5) (2)
(8) (5) (3) (1) (6) (7) (1) (4)
Gửi đơn yêu cầu phát hành thư tín dụng và tiến hành ký quỹ.
Phát hành L/C qua Ngân hàng đại lý cho người xuất khẩu hưởng lợi.
Ngân hàng thông báo tiến hành thông báo L/C và chuyển bản gốc L/C cho người hưởng lợi.
Giao hàng.
Xuất trình chứng từ đòi tiền Ngân hàng phát hành L/C.
Ngân hành phát hành thông báo kết quả kiểm tra chứng từ cho người yêu cầu.
Người yêu cầu chấp nhận hay từ chối thanh toán.
Ngân hàng phát hành thông báo chấp nhận hay từ chối nhận chứng từ.
2.3. Ý nghĩa của phương thức tín dụng chứng từ
Nếu như phương thức chuyển tiền, nhờ thu gây bất lợi cho một bên người mua hoặc một bên người bán, cũng có khi là cả hai bên thì phương thức thanh toán Tín dụng chứng từ tỏ ra ưu việt hơn, nó không những mang lại một số quyền lợi nhất định cho Ngân hàng mà nó còn đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên tham gia xuất nhập khẩu: Người bán đảm bảo được thanh toán nếu xuất trình được bộ chứng từ hoàn chỉnh, hợp lệ, còn người mua cũng đảm bảo nhận được hàng đúng thời hạn, đúng như quy định trong hợp đồng. Cụ thể:
* Đối với nhà xuất khẩu
Là người hưởng lợi của thư tín dụng, nhà xuất khẩu được đảm bảo rằng khi xuất trình bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của thư tín dụng (L/C) cho ngân hàng, nhà xuất khẩu sẽ nhận được tiền thanh toán.
Tình trạng tài chính của người mua được thay thế bằng việc ngân hàng phát hành(ngân hàng mở thư tín dụng) cam kết trả tiền, chấp nhận hoặc chiết khấu trên cơ sở chứng từ được trao phù hợp với các điều khoản của L/C.
* Đối với nhà nhập khẩu
Trước hết, nhà nhập khẩu sẽ nhận được hàng hoá như thể hiện trong các chứng từ được ngân hàng mở L/C ghi rõ trong thư tín dụng. Nhà NK cũng được bảo đảm rằng tài khoản của mình sẽ chỉ bị ghi nợ số tiền của thư tín dụng khi tất cả các chỉ thị của thư tín dụng được thực hiện đúng.
Trong trường hợp ngân hàng áp dụng mức miễn ký quỹ 100% hoặc một tỷ lệ miễn ký quỹ nhất định nào đó, nhà nhập khẩu sẽ không bị đọng vốn vì không phải ứng trước tiền. Hơn nữa, nhờ có sự bảo đảm về thanh toán, nhà nhập khẩu có thể tiến hành thương lượng các điều kiện tốt hơn về hàng hóa như giá cả, chất lượng và trên hết là có thêm cơ hội để nhập được hàng hoá mà mình cần.
* Đối với ngân hàng thương mại (NHTM)
Khi tiến hành nghiệp vụ thanh toán L/C, ngân hàng có được một nguồn thu ổn định từ việc thu phí như phí mở, sửa đổi, điều chỉnh L/C, phí thông báo, thanh toán, xác nhận L/C (các khoản phí trong nghiệp vụ thanh toán L/C nói chung khá cao, cao hơn so với những phương thức thanh toán khác vì nghiệp vụ này tương đối phức tạp, đòi hỏi trình độ nghiệp vụ cao). Ngoài ra khi quy định các khoản ký quỹ cho doanh nghiệp mở L/C ngân hàng còn huy động thêm được một lượng vốn đáng kể phục vụ cho hoạt động của các nghiệp vụ khác như cho vay xuất nhập khẩu, xác nhận, bảo lãnh... Hơn nữa, với việc thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán L/C sẽ góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng trên nhiều phương diện khác nhau không chỉ ở trong nước mà ngay cả trên trường quốc tế.
Phần II:
Các loại rủi ro trong phương thức thanh toán
tín dụng chứng từ
Trong thanh toán L/C, rủi ro xảy ra khi quyền lợi của một hoặc các bên tham gia bị vi phạm, rủi ro không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là việc chứng từ không được thanh toán mà còn phải được hiểu theo nghĩa rộng của nó là bất kỳ một sự khúc mắc, chậm trễ nào trong các khâu của quá trình thanh toán. Rủi ro trong thanh toán bằng L/C có thể xảy ra đối với tất cả các bên: đối với người bán, đối với người mua và đối với các ngân hàng.
Trong thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức TDCT, có rất nhiều rủi ro có thể xảy ra cho các bên tham gia vào quy trình này, tổng kết lại gồm 4 loại rủi ro chính: Rủi ro kỹ thuật, rủi ro chính trị, rủi ro hối đoái và rủi ro đạo đức.
I. Các loại rủi ro
1. Rủi ro kỹ thuật
Rủi ro kỹ thuật là những rủi ro do những sai sót mang tính kỹ thuật trong quy trình thanh toán TDCT.
a. Rủi ro đối với nhà Xuất khẩu
Khi tham gia phương thức thanh toán TDCT, nhà XK hay gặp những rủi ro sau:
1. Khi nhận được L/C từ NH thông báo, nếu nhà XK kiểm tra các điều kiện chứng từ không kĩ, chấp nhận cả những yêu cầu bất lợi mà nhà XK không thể đáp ứng được trong khâu lập chứng từ sau này. Khi các yêu cầu đó không được thoả mãn, NH phát hành từ chối bộ chứng từ và không thanh toán. Lúc đó, nhà NK sẽ có cơ sở để kéo dài thời gian thanh toán, giảm giá hoặc từ chối thanh toán, khiến cho quá trình thanh toán gặp nhiều khó khăn. Nhà XK sẽ gặp bất lợi trong việc thanh toán.
2. Trong thanh toán TDCT, ngân hàng mở L/C đứng ra cam kết thanh toán cho người XK khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với nội dung của L/C, NH chỉ làm việc với các chứng từ quy định trong L/C. Phương thức thanh toán TDCT đòi hỏi sự chính xác tuyệt đối giữa bộ chứng từ thanh toán với nội dung quy định trong L/C. Chỉ cần một sơ suất nhỏ trong việc lập chứng từ thì nhà XK cũng có thể bị NH mở L/C và người mua bắt lỗi, từ chối thanh toán. Do đó, việc lập bộ chứng từ thanh toán là một khâu quan trọng và rất dễ gặp rủi ro đối với nhà XK.
Trên thực tế có rất nhiều sai sót xảy ra trong quá trình lập chứng từ, thường gặp vẫn là:
+ Lập chứng từ sai lỗi chính tả, sai tên, địa chỉ của các bên tham gia, của hãng vận tải
+ Chứng từ không hoàn chỉnh về mặt số lượng.
+ Các sai sót trên bề mặt chứng từ : số tiền trên chứng từ vượt quá giá trị của L/C; các chứng từ không ghi số L/C, không đánh dấu bản gốc; các chứng từ không khớp nhau hoặc không khớp với nội dung của L/C về số lượng, trọng lượng, mô tả hàng hoá…; các chứng từ không tuân theo quy định của L/C về cảng bốc dỡ hàng, về hãng vận tải, về phương thức vận chuyển hàng hóa…
Tất cả những sai sót trên đều là những nguyên nhân gây nên rủi ro cho nhà XK khi lập bộ chứng từ thanh toán.
Ngoài ra, do sự khác biệt về tập quán, luật lệ ở mỗi nước cho nên dễ dẫn đến những sai sót khi nhà XK hoàn tất bộ chứng từ hàng hoá để gửi NH xin thanh toán.
3. Nếu nhà XK xuất trình bộ chứng từ không phù hợp với L/C thì mọi khoản thanh toán hay chấp nhận có thể đều bị từ chối, và nhà XK phải tự xử lý hàng hoá như dỡ hàng, lưu kho cho đến khi vấn đề được giải quyết hoặc phải tìm người mua mới, bán đấu giá hay chở hàng về quay về nước. Đồng thời, nhà XK phải chịu những chi phí như lưu tàu quá hạn, phí lưu kho… trong khi đó không biết rõ lập trường của nhà NK là sẽ đồng ý hay từ chối nhận hàng vì lý do bộ chứng từ có sai sót.
4. Nếu NH phát hành mất khả năng thanh toán, thì cho dù bộ chứng từ xuất trình là hoàn hảo thì cũng không được thanh toán. Gây ra rủi ro cho nhà XK: không thu được tiền. Cũng tương tự như vậy, nếu chấp nhận hối phiếu kỳ hạn bị phá sản trước khi hối phiếu đến hạn thì hối phiếu cũng không được trả tiền. Trừ khi L/C được xác nhận bởi một NH hạng nhất trong nước, còn lại nhà xuất khẩu sẽ phải chịu rủi ro về hệ số tín nhiệm của NH phát hành cũng như rủi ro chính trị hay rủi ro do cơ chế chính sách của nhà nước thay đổi.
5. Thư tín dụng có thể huỷ ngang có thể được NH phát hành sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ bất cứ lúc nào trước khi nhà XK xuất trình bộ chứng từ mà không cần sự đồng ý của nhà XK.
b. Rủi ro đối với nhà Nhập khẩu
Trong thanh toán TDCT, việc thanh toán của NH cho người thụ hưởng chỉ căn cứ vào bộ chứng từ xuất trình mà không căn cứ vào việc kiểm tra hàng hoá. NH chỉ kiểm tra tính chân thật bề ngoài của chứng từ, mà không chịu trách nhiệm về tính chất bên trong của chứng từ, cũng như chất lượng và số lượng hàng hoá. Như vậy sẽ không có sự đảm bảo nào cho nhà NK rằng hàng hoá sẽ đúng như đơn đặt hàng hay không. Nhà NK có thể nhận được hàng kém chất lượng hoặc bị hư hại trong quá trình vận chuyển. Trong trường hợp này nhà nhập khẩu vẫn phải hoàn trả đầy đủ tiền thanh toán cho NH phát hành.
Khi nhà NK chấp nhận bộ chứng từ hàng hoá sẽ có nguy cơ gặp rủi ro. Bộ chứng từ là cơ sở pháp lý đầu tiên về tính đúng đắn của hàng hoá. Nếu nhà NK không chú ý kiểm tra kỹ bộ chứng từ (từ lỗi, câu chữ, số lượng các loại chứng từ, cơ quan có thẩm quyền cấp các loại giấy chứng nhận…) mà chấp nhận bộ chứng từ có lỗi sẽ bị thiệt hại và gặp khó khăn trong việc khiếu nại sau này.
Một rủi ro mà nhà NK hay gặp là hàng đến trước bộ chứng từ, nhà NK chưa nhận được bộ chứng từ mà hàng đã cập cảng. Bộ chứng từ bao gồm vận tải đơn, mà vận tải đơn lại là chứng từ sở hữu hàng hoá nên thiếu vận tải đơn thì hàng hoá không được giải toả. Nếu nhà NK cần gấp ngay hàng hoá thì phải thu xếp để NH phát hành phát hành một thư bảo lãnh gửi hãng tàu để nhận hàng. Để được bảo lãnh nhận hàng, nhà NK phải trả thêm một khoản phí cho NH. Hơn nữa, nếu nhà NK không nhận hàng theo qui định thì tiền bồi thường giữ tàu quá hạn sẽ phát sinh.
Nhà nhập khẩu chưa nắm bắt được các thủ tục tố tụng, khi quá trình giao hàng có khúc mắc xảy ra thì người nhập khẩu không khiếu nại kịp thời, đúng chỗ dẫn đến người mua bị lỡ cơ hôi kinh doanh hay bị đọng vốn.
c. Rủi ro đối với ngân hàng phát hành
Trong nghiệp vụ mở L/C, nếu NH phát hành kiểm tra không kĩ đơn xin mở L/C sẽ dẫn đến việc chấp nhận cả những điều khoản hàm chứa rủi ro cho NH sau này.
Khi nhận được bộ chứng từ xuất trình, nếu NH phát hành trả tiền hay chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn mà không có sự kiểm tra một cách thích đáng bộ chứng từ, để bộ chứng từ có lỗi, nhà NK không chấp nhận, thì NH không thể đòi tiền nhà NK.
Trong trường hợp hàng đến trước bộ chứng từ thì NH phát hành hay được yêu cầu chấp nhận thanh toán cho người thụ hưởng mà chưa nhìn thấy bộ chứng từ. Nếu không có sự chấp nhận trước của người NK về việc hoàn trả, thì NH phát hành sẽ gặp rủi ro khi bộ chứng từ có sai sót, khi đó nhà NK không chấp nhận và NH sẽ không truy hoàn được tiền từ nhà NK.
Ngân hàng phát hành phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo qui định của L/C ngay cả trong trường hợp nhà NK mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản do kinh doanh thua lỗ.
Nếu trong L/C ngân hàng phát hành không qui định bộ vận đơn đầy đủ thì một người NK có thể lấy được hàng hoá khi chỉ cần xuất trình một phần của bộ vận đơn, trong khi đó người trả tiền hàng hoá lại là ngân hàng phát hành theo cam kết của L/C.
NH phát hành có thể gặp rủi ro do không hành động đúng theo UCP 600, đưa ra quyết định từ chối bộ chứng từ vượt quá 5 ngày làm việc của ngân hàng (theo qui định của UCP 600 là không quá 5 ngày)
d. Rủi ro đối với ngân hàng thông báo
NH thông báo có trách nhiệm về tính chân thật, hợp lệ của thư tín dụng (bao gồm cả việc xác minh chữ ký, mã khóa, mẫu điện…) trước khi gửi thông báo cho nhà XK. Rủi ro đối với NH thông báo xảy ra khi gặp phải một L/C giả hoặc NH phát hành sửa đổi một L/C mà không có ghi chú gì trong khi NH thông báo chưa xác nhận được tình trạng mã khoá hay chữ ký uỷ quyền của NH phát hành L/C.
2. Rủi ro ngoại hối
Trong thanh toán quốc tế hầu hết các hợp đồng thương mại đều sử dụng một ngoại tệ để thanh toán. Do vậy không thể tránh khỏi những rủi ro về ngoại hối. yếu tố nhạy cảm và sự biến động của nó làm cho cả nhà xuất khẩu và nhập khẩu đều không lường trước được sự biến động của nó. Sự biến động này, có thể gây thiệt hại cho nhà nhập khẩu hoặc nhà xuất khẩu trong từng trường hợp:
Thứ nhất là vấn đề tỷ giá hối đoái:
Đây là một trường hợp cụ thể. Ví dụ với nhà Nhập khẩp: khi hàng nhập về, tỷ giá trượt mạnh, đối với những mặt hàng giá bán cạnh tranh không thể tăng giá được, nhà nhập khẩu có thể từ chối nhận hàng vì sợ bị lỗ và vì cũng không có đủ khả năng thanh toán.
Trong một số trường hợp sự biến động của tỷ giá hối đoái cũng gây thiệt hại cho ngân hàng. Ví dụ: Trong thực tế ở nước ta, một số doanh nghiệp nhập khẩu thường không sẵn có ngoại tệ hoặc nếu có thì số lượng không đáng. Do đó khi cần ngoại tệ, họ sẽ chuyển nội tệ vào ngân hàng và yêu cầu ngân hàng bán ngoại tệ cho mình để thanh toán. Khi có yêu cầu mở L/C thanh toán ngân hàng sẽ thu tiền ký quỹ đối với nhà nhập khẩu. Do trong TTQT ngoại tệ mạnh thường được sử dụng nên ngân hàng mở sẽ phải dùng số tiền đó để mua ngoại tệ. Số tiền ký quỹ mà doanh nghiệp nộp vào ngân hàng đã được tính ra ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái tại thời điểm đó. Nếu vì một lý do nào đó ngân hàng không thực hiện ngay việc trao đổi lấy ngoại tệ tại thời điểm đó mà lùi lại một thời gian, giả sử khi đó đồng nội tệ giảm giá và ngân hàng không lường trước được điều này, ngân hàng sẽ phải mất thêm một khoản tiền để bù vào mức giảm đó khi mua ngoại tệ. Kết quả là ngân hàng sẽ bị mất một khoản tiền do sự biến động của tỷ giá hối đoái.
Bên cạnh đó, nếu trạng thái ngoại hối của ngân hàng không tốt, một mặt ngân hàng sẽ không đáp ứng được nhu cầu mua ngoại tệ của khách hàng, mặt khác bản thân ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn trong quá trình thanh toán cho ngân hàng. Thiệt hại xảy ra có thể về mặt tài chính vì ngân hàng phải đi vay ngoại tệ của ngân hàng khác, nhưng đồng thời cũng ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng trong hoạt động thanh toán nói riêng, hoạt động ngân hàng nói chung.
3. Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức là những rủi ro khi một bên tham gia phương thức thanh toán TDCT cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo qui định của L/C, làm ảnh hưởng tới quyền lợi của bên kia.
a. Rủi ro đạo đức đối với nhà XK
Mặc dù trong thanh toán TDCT đã có sự cam kết của NH mở L/C nhưng sự tin tưởng và thiện chí giữa người mua và người bán vẫn được coi là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự an toàn của TTQT. Khi người NK không thiện chí, cố ý không muốn thực hiện hợp đồng thì họ có thể dựa vào sai sót cho dù là rất nhỏ của bộ chứng từ để đòi giảm giá, kéo dài thời gian để chiếm dụng vốn của người bán, thậm chí từ chối thanh toán.
b. Rủi ro đạo đức đối với nhà NK
Với người mua sự trung thực của người bán là rất quan trọng bởi vì NH chỉ làm việc với các chứng từ mà không cần biết việc giao hàng có đúng hợp đồng hay không. Do đó nhà NK có thể gặp rủi ro nếu nhà XK có hành vi gian dối, lừa đảo…trong việc giao hàng: cố tình giao hàng kém phẩm chất, không đúng số lượng…
Một nhà XK chủ tâm gian lận có thể xuất trình bộ chứng từ giả mạo, có bề ngoài phù hợp với L/C cho NH mà thực tế không có hàng giao, người NK vẫn phải thanh toán cho NH ngay cả trong trường hợp không nhận được hàng hoặc nhận được hàng không đúng theo hợp đồng.
c.Rủi ro đạo đức đối với ngân hàng
NH là người gánh chịu rủi ro đạo đức : NH phát hành phải thực hiện thanh toán cho người hưởng lợi theo qui định của L/C ngay cả trong trường hợp người NK chủ tâm không hoàn trả.
NH là người gây ra rủi ro đạo đức: NH mở L/C có thể vi phạm cam kết của mình như từ chối thanh toán hoặc trì hoãn thanh toán hoặc đứng về phía khách hàng gây khó khăn trong quá trình thanh toán.
4. Rủi ro chính trị
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một trong các phương thức được sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc tế. Các chủ thể tham gia trong phương thức TDCT ở nhiều quốc gia khác nhau và tham gia vào nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Do đó, phương thức TDCT chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường chính trị, xã hội của các quốc gia. Một sự biến động dù là nhỏ về chính trị, xã hội của một quốc gia cũng sẽ ảnh hưởng tới sự vận động của tự do thương mại, đến hoạt động sản xuất kin