Từ những năm 1990 trở l ại đây, cạn kiệt nguồn nước đã và đang là một trong các vấn
đề toàn cầu mà toàn nhân loại đang phải quan tâm. Vấn đền này nghe qua thì có vẻ đơn
giản nhưng hậu quả mà nó gây ra lại rất nghiêm trọng, bởi nó đe dọa tới sự sinh tồn và
phát triển của mỗi người chúng ta nói riêng và cả nhân loại nói chung. Chính vì vậy, việc
khắc phục những hậu quả của nó đang là một mục tiêu mới nổi trong việc hoạch định
chính sách của các quốc gia hiện nay. Điều đó nói lên rằng các nhà hoạch định chính sách
trước đây chưa chú ý nhiều đến vấn đề này, và họ cần phải có được cái nhìn tổng quát
nhất về vấn đề cạn kiệt nguồn nước trên phạm vi toàn cầu cũng như trong nước mình. Bài
nghiên cứu này nhằm mục đích cung cấp cho nguời đọc cái nhìn tổng quát, khoa học về
vấn đề cạn kiệt nguồn nước, cùng những ví dụ về những nơi cụ thể được coi là điểm nóng
về thiếu nước hiện nay trên thế giới, để người đọc tham khảo và cùng suy nghĩ về một
vấn nạn mang tính chất toàn cầu. Do thời gian làm việc, tập trung nhóm có hạn và còn
một số mặt hạn chế của nhóm thực hiện tiểu luận này, nhóm chúng em mong cô giáo chỉ
bảo thêm và các bạn cùng góp ý.
15 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5825 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các vấn đề toàn cầu - Vấn đề: Cạn kiệt nguồn nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 1 -
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
Khoa CTQT&NG
Các vấn đề toàn cầu
Vấn đề:
Cạn kiệt nguồn nước
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Trịnh Thị Thu Huyền
- 2 -
Mục lục
TỔNG QUAN....................................................................... 3
LỜI NÓI ĐẦU ...................................................................... 3
THỰC TRẠNG NGUỒN NƯỚC HIỆN NAY ......................... 3
NGUYÊN NHÂN CẠN KIỆT NGUỒN NƯỚC ....................... 5
TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI QUAN HỆ QUỐC TẾ ......................... 6
TRONG NƯỚC ........................................................................... 7
QUỐC TẾ ................................................................................... 9
GIẢI PHÁP CHO CẠN KIỆT NGUỒN NƯỚC .................... 11
BIỆN PHÁP KỸ THUẬT VÀ QUẢN LÝ ..................................... 11
BIỆN PHÁP THỊ TRƯỜNG ...................................................... 12
BIỆN PHÁP HỢP TÁC, THƯƠNG LƯỢNG ............................. 13
BIỆN PHÁP PHÁP LUẬT ......................................................... 14
NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CẠN KIỆT NGUỒN NƯỚC TOÀN CẦU ............................ 14
KẾT LUẬN ......................................................................... 15
DANH MỤC THAM KHẢO ................................................. 15
- 3 -
Tổng quan
Từ những năm 1990 trở lại đây, cạn kiệt nguồn nước đã và đang là một trong các vấn
đề toàn cầu mà toàn nhân loại đang phải quan tâm. Vấn đền này nghe qua thì có vẻ đơn
giản nhưng hậu quả mà nó gây ra lại rất nghiêm trọng, bởi nó đe dọa tới sự sinh tồn và
phát triển của mỗi người chúng ta nói riêng và cả nhân loại nói chung. Chính vì vậy, việc
khắc phục những hậu quả của nó đang là một mục tiêu mới nổi trong việc hoạch định
chính sách của các quốc gia hiện nay. Điều đó nói lên rằng các nhà hoạch định chính sách
trước đây chưa chú ý nhiều đến vấn đề này, và họ cần phải có được cái nhìn tổng quát
nhất về vấn đề cạn kiệt nguồn nước trên phạm vi toàn cầu cũng như trong nước mình. Bài
nghiên cứu này nhằm mục đích cung cấp cho nguời đọc cái nhìn tổng quát, khoa học về
vấn đề cạn kiệt nguồn nước, cùng những ví dụ về những nơi cụ thể được coi là điểm nóng
về thiếu nước hiện nay trên thế giới, để người đọc tham khảo và cùng suy nghĩ về một
vấn nạn mang tính chất toàn cầu. Do thời gian làm việc, tập trung nhóm có hạn và còn
một số mặt hạn chế của nhóm thực hiện tiểu luận này, nhóm chúng em mong cô giáo chỉ
bảo thêm và các bạn cùng góp ý.
Lời nói đầu
Tài nguyên nước (ở đây là tài nguyên nước ngọt) là một vấn đề môi trường
sinh thái, vấn đề kinh tế, và quan trọng hơn đó là vấn đề xã hội và chính trị. Sau
khi chiến tranh lạnh kết thúc, cùng với việc tài nguyên nước toàn cầu ngày càng
thiếu nghiêm trọng, vấn đề này càng được cộng đồng quốc tế quan tâm. Để có
được cái nhìn chung và khái quát cho mọi người, đồng thời góp phần làm cho bài
tiểu luận có giá trị khoa học cao, nhóm chúng tôi thấy nên trình bày vấn đề này
theo những nội dung chính sau: thực trạng, nguyên nhân, tác động tới quan hệ
quốc tế, giải pháp và khó khăn khi thực hiện.
Thực trạng nguồn nước hiện nay
Nếu không có gì thay đổi, chỉ trong vòng một thế hệ nữa, nghĩa là từ khoảng năm
2030, trên phạm vi toàn thế giới sẽ trở nên khô hạn. Vấn đề quản lí nguồn nước, nước
ngọt trong lục địa sẽ là vấn đề chính quyết định sự phát triển kinh tế và xã hội. Sự lãng
phí nước, sự ô nhiễm cũng như sự căng thẳng về nước (water stress), dù cách này hay
- 4 -
cách khác cũng sẽ tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những quốc
gia nghèo.
Trong bản báo cáo của Liên hợp quốc (LHQ) vừa được công bố mang tên “tương lai
2008”, có phần dự báo về những thách thức của loài người trong tương lai. Theo đó,
ngoài giá lương thực và năng lượng tăng cao, thì cùng với vấn đề thay đổi khí hậu, khan
hiếm nguồn nước cũng là một trong những thách thức vô cùng lớn đối với nhân loại trong
tương lai.
Theo số liệu thống kê của LHQ, hiện nay khoảng 20% dân số thế giới sống tại 30
quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước sinh hoạt và con số này trong năm
2025 được dự báo sẽ lên tới 30%. Ngoài ra, có gần 50% dân số thế giới hiện không có hệ
thống nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn, do đó, hơn 1/3 dân số thế giới đang gặp phải các vấn đề
về sức khỏe liên quan tới nước.
Trong khi đó, số liệu của Viện Nước Quốc tế ở Stockholm (Thụy Điển -SIWI) cũng
cho thấy, mỗi ngày trên thế giới có tới 5.000 trẻ em tử vong vì bị tiêu chảy do điều kiện
vệ sinh không đảm bảo, không đủ nước cho sinh hoạt. Theo thống kê của Viện này,
lượng nước sinh hoạt trung bình dành cho người dân ở khu vực châu Á hiện nay chỉ đạt
khoảng 15-30% so với trong thập niên 50 của thế kỷ XX. Có nghĩa là viễn cảnh nước
ở khu vực châu Á đến năm 2025 rất đáng báo động, lượng nước sinh hoạt trung bình sẽ
giảm đến 70% so với năm 1950 và "nước sẽ là một trong những thách thức đau đầu nhất
đối với khu vực này".
Tại Trung Quốc, 200 sông suối và nhiều ao hồ ở khu vực quanh Thủ đô Bắc Kinh
đang dần cạn kiệt nước. Hơn 2/3 lượng nước thành phố đang sử dụng phải hút từ các
giếng sâu tới hơn 1.000m trở lên. Như vậy, Bắc Kinh có thể hết nước ngầm trong vòng 5-
10 năm tới.
Việt Nam hiện cũng thuộc số các quốc gia thiếu nước, với mức bình quân chỉ đạt
4.400 m3/người/năm (bao gồm cả nước mặt và nước ngầm), thấp hơn rất nhiều so với
mức bình quân của thế giới là 7.400 m3/người/năm.
Một số vùng như các sa mạc ở châu Phi, vùng Trung Đông, Ai Cập... cũng thiếu
nước trầm trọng, thậm chí đã diễn ra các cuộc xung đột về nước. Một nửa diện tích đất
canh tác của Ai Cập có nguy cơ bị chua mặn vì thiếu nước, bởi lẽ: mực nước của sông
- 5 -
Nile - "thần nước" của nền văn minh Ai Cập ngày nay đã tụt xuống 90 cm so với trước
đây.
Tại Châu Âu, cũng có tới 20 triệu người dân không được tiếp cận với các điều kiện
vệ sinh an toàn vì tình trạng thiếu nước. Hiện nay, Đức là quốc gia có giá nước sinh hoạt
đắt nhất thế giới, cao gấp 4 lần so với giá nước sinh hoạt tại Mỹ.
Ngay cả người dân ở Nam California (Mỹ), lần đầu tiên sau nhiều năm trong lịch sử
cũng phải đối mặt với chuyện tiết kiệm nước tối đa.
Bên cạnh đó, một vấn đề đạo lý cũng được đặt ra: đó là tình trạng bất bình đẳng giàu
nghèo trước nguồn nước. Hiện nay, một người sinh sống ở Bắc Mỹ bình quân sử dụng
400 lít nước mỗi ngày, một người ở châu Âu cũng dùng đến 200 lít/ngày.
Ngược lại, tại các nước nghèo đang phát triển, lượng nước bình quân sử dụng theo
đầu người chỉ vẻn vẹn khoảng 10 lít mỗi ngày.
Có thể thấy rằng nhân loại chúng ta sắp phải trải qua cuộc khủng hoảng trầm trọng
về nước. Nó ảnh hưởng tới lợi ích sống còn của nhiều dân tộc nhiều quốc gia, đặc biệt là
những nước nghèo thuộc thế giới thứ ba. Vì vậy mà chúng ta cần phải tìm hiểu nguyên
nhân gây ra tình trạng trên mà qua đó ta sẽ có thể tìm ra được giải pháp phù hợp ngăn
chặn thảm họa đó.
Nguyên nhân cạn kiệt nguồn nước
Nước là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm và quan trọng nhất đang bị cạn kiệt.
Nguy cơ thiếu nước, đặc biệt là nước ngọt và sạch là một hiểm hoạ lớn cho sự sống còn
của loài người, cũng như toàn bộ trái đất. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra vấn đề trên,
tuy nhiên, theo báo cáo của Liên Hợp Quốc có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Sự tăng trưởng dân số và kinh tế ở châu Á cũng như ở nhiều quốc gia đang phát
triển khác là một nhân tố quan trọng dẫn đến tình trạng khan hiếm nguồn nước. Theo ước
tính của LHQ, dân số thế giới năm 2050 sẽ đạt tới 9 tỷ người, như vậy nhu cầu sử dụng
nước sẽ tăng lên và việc tiếp cận với nguồn nước sạch ngày càng khó hơn.
Thêm vào đó là tốc độ đô thị hóa quá nhanh, tốc độ phát triển kinh tế cao và sự thay
đổi trong cách ăn uống của người dân bị đô thị hóa cũng là nguyên nhân gây ra cạn kiệt
nguồn nước. Phần lớn chất thải công nghiệp và sinh hoạt được thải ra các dòng nước,
cùng với việc sử dụng quá nhiều phân khoáng và thuốc trừ sâu của nông dân khiến cho
các tầng nước ngầm bị ô nhiễm, gây ra tình trạng khan hiếm nguồn nước.
- 6 -
Mặt khác, nhu cầu nước dùng cho nông nghiệp tăng cao, càng làm cạn kiệt nguồn
nước. Theo SIWI, hoạt động nông nghiệp của thế giới hiện sử dụng 70% lượng nước khai
thác, trong khi đó 60% lượng nước này bị sử dụng không hiệu quả. Trong khi đó tình
trạng và nhu cầu tưới tiêu của nông nghiệp lại không ngừng tăng lên cùng với sự phát
triển dân số. Ngay cả những nước có khí hậu ôn hòa như Pháp thì lượng nước dành cho
nông nghiệp cũng chiếm tới 30% tổng lượng nhu cầu. Tiêu thụ ở những thành phố lớn
cũng không ngừng tăng lên. Ở đó có một kẻ tiêu thụ mới nhưng cũng không kém phần
tham lam: du lịch. Tính trung bình, một khách du lịch trong một khách sạn hạng sang tiêu
thụ từ 500 đến 800l nước/ngày, gấp nhiều lần mức tiêu thụ của cư dân bản địa. Kèm theo
là các dịch vụ giải trí và vệ sinh. Một sân golf hằng năm tiêu thụ khoảng 10.000m3 nước
cho một ha, tương đương với một diện tích trồng trọt trong nông nghiệp. Thêm vào đó
thủy điện và công nghiệp cũng là những kẻ tiêu thụ nước với số lượng lớn. Cùng với đó
là những tác động xấu đến sinh thái và văn hóa – xã hội ở các khu vực nhà máy.
Rác thải gây ô nhiễm, khí hậu biến đổi và ô nhiễm môi trường từ nhiều nguồn khác
cũng khiến nguồn nước sạch khan hiếm dần. Có những dự báo cho rằng, khí hậu toàn cầu
ấm dần lên nên lưu lượng nước nhiều con sông ở châu Á và châu Phi có thể giảm từ 15-
50%. Hơn nữa, nước băng tan không bổ sung cho nguồn nước ngọt, mà thường chảy ra
biển thành nước mặn.
Tình hình trên càng trở nên trầm trọng hơn bởi việc quản lí tài nguyên nước đòi hỏi
phải có những cơ quan quản lí chuyên trách, có tính cách liên vùng và liên quốc gia. Vậy
mà hiện nay, đó lại chính là khâu còn thiếu. Hơn thế nữa, một chính sách tiết kiệm nước
bằng giá cả thông qua việc quy định một mức giá bao hàm tất cả mọi thứ chi phí về sử
dụng nước vẫn còn chưa được phổ biến. Càng ngày, người ta càng nhận thấy rằng không
thể có một giải pháp thực sự cho vấn đề nước nếu không có sự tham gia tài chính trực
tiếp của các đối tượng sử dụng.
Tác động đối với quan hệ quốc tế
Nước là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự xung đột về lợi ich
giữa các quốc gia. Tại diễn đàn Thế giới lần thứ ba về nước họp ở Kyoto, Nhật Bản,
tháng 3-2003, các đại biểu đã cảnh báo nguy cơ nước sẽ trở thành nguyên nhân của
những xung đột sắt tới, khi mà tình trạng thiếu nước ngọt và sạch vẫn tiếp tục gia tăng.
- 7 -
Ông Uyliam Côxgô, Phó Chủ tịch Hội đồng Nước Thế giới đã nhận định rằng, tác động
của cuộc khủng hoảng về nước tới cuộc sống nhân loại trong thế kỷ XXI sẽ to lớn hơn
nhiều so với cuộc khủng hoảng hiện nay ở Trung Đông, hoặc so với bất kỳ vấn đề thời
cuộc chính trị nào khác. Liên hợp quốc cũng đã thừa nhận rằng, hiện nay trên thế giới đã
và đang xảy ra xung đột dữ dội về nước trong gần 300 khu vực.
Cạn kiệt nguồn nước không chỉ đe dọa sự sống của con người và các sinh vật, mà
còn đe dọa cả sự tồn tại và phát triển của xã hội nói riêng và của Trái Đất nói chung. Sự
suy giảm mạnh mẽ về số lượng cũng như chất lượng của nước trên toàn thế giới hiện nay
là một thực tế nguy hiểm. Nó đang đưa nhân loại đến một cuộc khủng hoảng trầm trọng
về nước. Cuộc khủng hoảng về nước mang tính toàn cầu, bởi vì, nó đang đụng chạm đến
lợi ích sống còn của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước nghèo thuộc thế
giới thứ ba. Trong những thập niên sắp tới, cuộc khủng hoảng về nước chắc chắn sẽ khốc
liệt hơn, nan giải hơn so với cuộc khủng hoảng về dầu lửa, vì rằng, dầu lửa còn có thể
thay thế được và nhu cầu về dầu lửa còn có giới hạn nhất định. Ngược lại, nước thì không
thể thay thế được. Vấn nạn này có tác động ở nhiều cấp độ: trong nước và quốc tế.
Trong nước
Trước hết, chúng ta hãy xem tác động của vấn nạn này ở cấp độ trong mỗi quốc gia,
để thấy được cạn kiệt nguồn nước có vai trò gì trong việc hoạch định chính sách đối
ngoại của các nước, từ đó mới có thể rút ra tác động của vấn đề này tới sự tương tác giữa
chính sách đối ngoại của các nước đó, hay nói cách khác là nó tác động gì tới quan hệ
quốc tế. Vấn đề do nước gây nên trong nước liên quan đến xã hội, kinh tế, sức khỏe, môi
trường sinh thái trong nước.
Thứ nhất, ảnh hưởng của tài nguyên nước đối với sinh tồn và khả năng phát triển liên
tục của một quốc gia. Đặc biệt với những nước thiếu nước nghiêm trọng hoặc tiềm ẩn
nguy cơ thiếu nước nghiêm trọng thì đó là vấn đề chiến lược hàng đầu. Điều này biểu
hiện nổi bật ở các nước Trung Đông bị thiếu nước nghiêm trọng. Đối với những nước này,
nước là tài nguyên chiến lược của quốc gia có quan hệ mật thiết đến an ninh quốc gia.
Tài nguyên nước có ảnh hưởng mật thiết nhất đến vấn đề lương thực. Nông nghiệp là
ngành dùng nhiều nước nhất, chiếm 70-80% lượng nước dùng trở lên, còn ở nơi nhiệt đới
khô cằn chiếm trên 90%. Dân số tăng thì cần dùng nhiều lương thực, cũng có nghĩa là cần
dùng nhiều nước hơn để sản xuất đủ lương thực. Theo LHQ, đến 2025, thế giới có
- 8 -
khoảng 8,3 tỷ người, các quốc gia có số người tăng thêm (chủ yếu ở các quốc gia đang
phát triển mà lại đang bị hạn hán hoặc nửa hạn hán) phải đứng trước lựa chọn khó khăn là
dùng nguồn nước hiếm hoi đắt giá để sản xuất lương thực hay dùng nước để sản xuất
hàng hóa khác và sau đó nhập khẩu lương thực. Cho dù là thế nào thì giá lương thực cũng
sẽ tăng theo. Các nước Trung Đông đều đứng trước tình trạng khó khăn này, và đây cũng
là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
Thứ hai, ảnh hưởng của nước với an toàn sức khỏe nhân dân. Trong thời bình, sự ô
nhiễm môi trường thu hút được nhiều sự chú ý. Trước đây các nước coi thường việc bảo
vệ tài nguyên nước nên đã phải chịu nhiều hậu quả do ô nhiễm nước gây ra. Dù hiện nay,
các nước vẫn đang nỗ lực để xử lý ô nhiễm nước, nhưng xét từ góc độ toàn cầu, vấn đề ô
nhiễm nước và uống nước sạch vẫn rất nghiêm trọng, đặc biệt là ở các nước đang phát
triển. Giữa thập kỷ 90 thế kỷ XX, ở Pêru xảy ra một trận dịch tả, loại bệnh do nước
truyền đi này đã lây lan khắp Mỹ Latinh, làm cho hàng trăm người tử vong. Do uống
nước không an toàn, không hợp vệ sinh nên mỗi năm có hơn 5 triệu người tử vong.1
Thứ ba, vấn đề môi trường sinh thái do nước gây ra. Nước có quan hệ mật thiết với
môi trường sinh thái như đất, đại dương, rừng và các loại động vật hoang dã…Một số
nước Arập do khai thác nước ngầm quá nhiều làm mức nước ngầm giảm đi và nước biển
thay thế vào. Đất bị thoái hóa, sa mạc hóa, các đầm lầy, ao hồ, dần bị thu nhỏ lại và biến
mất, các động thực vật hoang dã bị tuyệt chủng. Khai thác mạch nước ngầm làm cho mức
nước ngầm bị tụt xuống thấp, mặt đất sụt xuống, Mêhicô, Mỹ, Nhật Bản, Trung
Quốc…đều tồn tại tình trạng này, có thành phố thấp xuống từ 1-10m….Tình hình trên
cho thấy an ninh sinh thái đang bị đe dọa, ngược lại sự phá hoại môi trường lại đe dọa an
toàn sức khỏe và sự phát triển của con người.
Thứ tư, mâu thuẫn trong mỗi quốc gia do nước gây nên. Nước là thứ cơ bản nhất của
cuộc sống, nếu thiếu nước, các quan hệ xã hội sẽ trở nên căng thẳng, các hiện tượng tranh
giành nước vì sự sinh tồn và phát triển nổ ra ngày càng nhiều. Sự tranh chấp có thể xảy ra
giữa các dân cư của thành phố, giữa những người dân nông thôn, giữa công chúng với
chính phủ, giữa trung ương với địa phương, giữa các khu vực trong nước, cũng có thể
xảy ra giữa nước dùng cho công nghiệp, nông nghiệp, năng lượng, vui chơi và sinh hoạt.
Các bang của Ấn Độ xảy ra mâu thuẫn do tranh giành nước, ở Trung Quốc cũng xảy ra
1 Liên Hợp Quốc: “Đánh giá tòan diện tài nguyên nước ngọt thế giới”, 1997.
- 9 -
xung đột ở thượng, trung, hạ lưu sông Hoàng Hà, các cuộc tranh chấp về vấn đề phân
phối nước giữa người Do Thái và người A rập ở Trung Đông…đều phản ánh sự ảnh
hưởng của nước đối với ổn định chính trị và an ninh xã hội trong nước.
Do nước tồn tại tính xuyên biên giới nên nó cũng có tính quốc tế và tính toàn cầu,
vấn đề an ninh nguồn nước trong mỗi quốc gia tất nhiên sẽ mở rộng đến quan hệ quốc tế
và lĩnh vực an ninh trên phạm vi quốc tế.
Quốc tế
Từ lúc đầu mới ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại, và khi mà các nước luôn có
những mục tiêu trong chính sách về nguồn nước khác nhau thì vấn đề cạn kiệt nguồn
nước sẽ làm cho những chính sách đó va chạm với nhau quyết liệt, tạo nên những mâu
thuẫn, tranh chấp, xung đột…giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Thứ nhất, tranh chấp tài nguyên nước do lịch sử để lại. Mặc dù các nhà nước đã đạt
được một số thỏa thuận, nhưng cùng với sự biến đổi của địa lý, bản đồ chính trị, và sự
phát triển thời cuộc bên trong nước nên một số hiệp định mà một số hiệp định lại trở
thành nguyên nhân lịch sử gây nên tranh chấp. Sự phân chia biên giới không tính đến sự
phân phối và quản lý nước đã gieo mầm mống cho tranh chấp. Tình trạng này rất rõ nét ở
khu vực châu Phi và Trung Đông. Ví dụ như biên giới giữa Xyri và Israel cho đến nay
vẫn chưa xác định được, điều này chủ yếu là do giới hạn vạch ra trong thời kỳ Anh, Pháp
thống trị liên quan đến sự phân phối tài nguyên nước, nhưng cả hai đều không vừa ý với
những phương án phân chia này.
Thứ hai, mâu thuẫn tranh chấp tài nguyên nước của các quốc gia thiếu nước. Ví dụ
như xung đột giữa Israel và Aicập hay ở toàn bộ khu vực Trung Đông. Thập kỷ 50-60 thế
kỷ XX, Israel đơn phương xây dựng “công trình dẫn nước” để lấy nước sông Gioocđan.
Để chống lại việc này, các quốc gia Arập xây dựng công trình chuyển đổi dòng nước, hai
bên không bên nào chịu nhường nhịn, nhiều lần gây xung đột, cuối cùng trở thành chiến
tranh Trung Đông lần ba. Mâu thuẫn giữa ba nước Xyri, Irắc và Thổ Nhĩ Kỳ xung quanh
tài nguyên nước lưu vực sông Euphrate và Tigre cũng rất sâu sắc. Có người ví rằng vấn
đề tài nguyên nước của khu vực là “quả bom hẹn giờ”. Có người dự báo, những cuộc
chiến tranh trong thế kỷ sau sẽ không phải vì tranh giành dầu mỏ mà là vì tranh giành tài
nguyên nước. Tổng thứ ký Liên hợp quốc, ông B. Gali ngay từ 1982 đã cho rằng:
“nguyên nhân chính đe dọa hòa bình Trung Đông là thiếu hụt tài nguyên nước”.
- 10 -
Thứ ba, lấy nước làm thủ đoạn đe dọa hay công cụ chiến tranh. Các mục tiêu quân sự
thường hay nhắm vào đập nước, các công trình thủy lợi, nhất là ở các nước thiếu nước
hay ở những khu vực cần nước... Trong chiến tranh vùng Vịnh, các đập nước, xưởng sản
xuất nước ngọt từ biển, hệ thống thủy lợi…của Irắc và Côoét đều trở thành mục tiêu quân
sự. Từ xưa đến nay, có nhiều ví dụ về dùng nước làm công cụ chiến tranh, như lấy nước
dìm chết quân địch, phá hủy hệ thống cấp nước của đối phương, làm ô nhiễm nguồn nước.
Tuy loại hình này không phải thường xuyên và cũng không thật nhiều, nhưng do vẫn tồn
tại nên một số quốc gia rất nhạy cảm khi đề cập vấn đề tài nguyên nước và quyền khai
thác nước.
Thứ tư, xung đột do khai thác, quản lý và phân phối nước gây ra. Đó là trường hợp
một số quốc gia có chung nguồn nước, nếu một nước xây dựng công trình thủy lợi hoặc
thực thi kế hoạch phát triển công-nông nghiệp, thường có ảnh hưởng lớn tới tài nguyên
nước hoặc các mặt khác của nước khác trong vùng, từ đó dẫn đến các xung đột. Ví dụ,
Israel làm mưa nhân tạo ở trong nước khiến cho Gióocđani phàn nàn, vì Gióocđani cho
rằng nếu Israel không làm mưa nhân tạo, thì nước mưa tự nhiên sẽ rơi xuống Gióocđani
chứ không rơi xuống Israel. Mỹ xây dựng công trình thủy lợi trên sông Colorado làm ảnh
hưởng đến chất lượng của nước chảy vào Mêhicô, gây ra những tranh cãi của hai nước về
vấn đề này, cuối cùng phải thông qua đàm phán ngoại giao mới giải quyết được.
Thứ năm, khủng hoảng tài nguyên nước dẫn đến vấn đề di dân. Một lượng lớn người
dân di cứ vượt qua biên giới các nước, nếu họ không được các quốc gia có liên quan sắp
xếp thỏa đáng thì có thể gây nên xung đột quốc tế. Công trình đập nước Axoan của Aicập
không những làm cho hơn 100.000 người dân nước này phải di c