a. Khái niệm
Toàn cầu hóa là quá trình hình thành thị trường thế giới thống nhất, hệ thống tài chính – tín dụng toàn cầu, mở rộng giao lưu kinh tế - khoa học – công nghệ giữa các nước và giải quyết các vẫn đề về chính trị xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Quá trình toàn cầu hóa diễn ra trên các lĩnh vực: kinh tế (nhất là thương mại, đầu tư, tài chính.), khoa học công nghệ, văn hóa, thông tin, bảo vệ môi trường sinh thái và lĩnh vực chính trị (bao gồm cả ngọai giao và quân sự). Mức độ toàn cầu hóa các lĩnh vực trên không giống nhau, rõ nhất là lĩnh vực kinh tế, chậm nhất là lĩnh vực chính trị.
b. Vài nét sơ lược về lịch sử xu thế toàn cầu hóa
Toàn cầu hoá đã bắt đầu xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 15, nhưng đến thế kỷ 19 khi hệ thống bản vị vàng xuất hiện, toàn cầu hóa mới thực sự trở thành một xu thế lớn.
Nhưng khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ, tiếp đến là sự sụp đổ của hệ thống bản vị vàng vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930 thì xu thế này bị gián đoạn. Trong môi trường hậu chiến tranh thế giới lần thứ hai, thương mại quốc tế tăng trưởng đột ngột do tác động của các tổ chức kinh tế quốc tế và các chương trình tái kiến thiết.
Kể từ chiến tranh thế giới lần thứ hai, các vòng đàm phán thương mại do GATT khởi xướng, đã đặt lại vấn đề toàn cầu hoá và từ đó dẫn đến một loạt các hiệp định nhằm gỡ bỏ các hạn chế đối với "thương mại tự do". Vòng đàm phán Uruguay đã đề ra hiệp ước thành lập Tổ chức thương mại thế giới hay WTO, nhằm giải quyết các tranh chấp thương mại. Các hiệp ước thương mại song phương khác, bao gồm một phần của Hiệp ước Maastricht của châu Âu và Hiệp ước mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) cũng đã được ký kết nhằm mục tiêu giảm bớt các thuế quan và rào cản thương mại. Từ thập kỷ 1970, các tác động của thương mại quốc tế ngày càng rõ rệt, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực.
Giai đoạn hiện nay, trong lúc khủng hoảng kinh tế đang hoành hành bởi thiếu những định chế tính toàn cầu thì toàn cầu hóa các định chế kinh tế tài chính đang là một đòi hỏi cấp thiết và chắc chắn sẽ trở thành một xu thế sau khủng hoảng.
19 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6436 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các xu hướng phát triển của thương mại quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI THUYẾT TRÌNH
CÁC XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
LỚP G33
A. XU THẾ TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP
I. Toàn cầu hóa và hội nhập.
1. Toàn cầu hóa.
a. Khái niệm
Toàn cầu hóa là quá trình hình thành thị trường thế giới thống nhất, hệ thống tài chính – tín dụng toàn cầu, mở rộng giao lưu kinh tế - khoa học – công nghệ giữa các nước và giải quyết các vẫn đề về chính trị xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Quá trình toàn cầu hóa diễn ra trên các lĩnh vực: kinh tế (nhất là thương mại, đầu tư, tài chính...), khoa học công nghệ, văn hóa, thông tin, bảo vệ môi trường sinh thái và lĩnh vực chính trị (bao gồm cả ngọai giao và quân sự). Mức độ toàn cầu hóa các lĩnh vực trên không giống nhau, rõ nhất là lĩnh vực kinh tế, chậm nhất là lĩnh vực chính trị.
b. Vài nét sơ lược về lịch sử xu thế toàn cầu hóa
Toàn cầu hoá đã bắt đầu xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 15, nhưng đến thế kỷ 19 khi hệ thống bản vị vàng xuất hiện, toàn cầu hóa mới thực sự trở thành một xu thế lớn.
Nhưng khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ, tiếp đến là sự sụp đổ của hệ thống bản vị vàng vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930 thì xu thế này bị gián đoạn. Trong môi trường hậu chiến tranh thế giới lần thứ hai, thương mại quốc tế tăng trưởng đột ngột do tác động của các tổ chức kinh tế quốc tế và các chương trình tái kiến thiết.
Kể từ chiến tranh thế giới lần thứ hai, các vòng đàm phán thương mại do GATT khởi xướng, đã đặt lại vấn đề toàn cầu hoá và từ đó dẫn đến một loạt các hiệp định nhằm gỡ bỏ các hạn chế đối với "thương mại tự do". Vòng đàm phán Uruguay đã đề ra hiệp ước thành lập Tổ chức thương mại thế giới hay WTO, nhằm giải quyết các tranh chấp thương mại. Các hiệp ước thương mại song phương khác, bao gồm một phần của Hiệp ước Maastricht của châu Âu và Hiệp ước mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) cũng đã được ký kết nhằm mục tiêu giảm bớt các thuế quan và rào cản thương mại. Từ thập kỷ 1970, các tác động của thương mại quốc tế ngày càng rõ rệt, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực.
Giai đoạn hiện nay, trong lúc khủng hoảng kinh tế đang hoành hành bởi thiếu những định chế tính toàn cầu thì toàn cầu hóa các định chế kinh tế tài chính đang là một đòi hỏi cấp thiết và chắc chắn sẽ trở thành một xu thế sau khủng hoảng.
2. Hội nhập kinh tế quốc tế.
a. Khái niệm
Hội nhập KTQT là quá trình gắn kết nền kinh tế của các quốc gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó các nước thành viên chịu sự ràng buộc theo những quy định chung của cả khối.
Toàn cầu hóa và hội nhập có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, toàn cầu hóa buộc các quốc gia phải đứng trước hai lựa hội nhập để phát triển hay đóng cửa để trì trệ. Tất nhiên, chẳng quốc gia nào lại muốn đất nước mình trì trệ, chỉ có điều họ nhận ra điều đó sớm hay muộn mà thôi.
b. Bản chất của hội nhập KTQT là quá trình các quốc gia:
- Thực hiện mô hình kinh tế mở;
- Tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế, tài chính khu vực và quốc tế ;
- Thực hiện thuận lợi hóa và tự do hóa thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
c. Tính tất yếu khách quan của hội nhập KTQT
- Hội nhập KTQT gắn với quá trình vận động và phát triển của phân công lao động quốc tế và hình thành chuỗi giá trị toàn cầu.- Hội nhập KTQT hình thành do xu hướng khách quan của các hãng phát triển sản xuất kinh doanh nhằm phát huy lợi thế nhờ quy mô.
- Hội nhập KTQT là biểu hiện của sự phát triển cao của quá trình xã hội hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
II. Những nhân tố tác động đến xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình từng bước xây dựng một nền kinh tế mở, gắn kết nền kinh tế trong nước với nền kinh tế khu vực và thế giới, là xu thế khách quan không một quốc gia nào có thể đứng ngoài cuộc. Hội nhập không phải là một hiện tượng mới. Tuy nhiên, phải từ cuối thập niên 80 trở lại đây, hội nhập kinh tế quốc tế mới thực sự trở thành một trào lưu lớn, cuốn hút sự tham gia của tất cả các nước. Hội nhập kinh tế quốc tế được thúc đẩy bởi những nhân tố chính sau:
- Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin;
- Hoạt động thương mại, tài chính-tiền tệ và đầu tư quốc tế gia tăng mạnh mẽ theo xu hướng tự do hoá;
- Thương mại hàng hóa, dịch vụ ngày càng gia tăng, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của các nước;
- Các công ty xuyên quốc gia (TNC) ngày càng lớn mạnh đóng vai trò tiên phong trong quá trình toàn cầu hóa;
- Sự thay đổi cơ bản về khái niệm an ninh, lấy phát triển kinh tế là cách thức hữu hiệu để bảo đảm an ninh cho mỗi quốc gia.
Những yếu tố trên, đặc trưng của quá trình toàn cầu hóa, đã làm cho hội nhập KTQT trở thành một trào lưu, một xu thế tất yếu. Bất cứ một nền kinh tế nào muốn không bị gạt ra ngoài lề của dòng chảy phát triển, đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, điều chỉnh chính sách, mở cửa thị trường thông qua cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ hàng rào cản phi thuế quan, làm cho việc trao đổi hàng hóa, luân chuyển vốn, lao động, công nghệ và kỹ thuật trên phạm vi thế giới ngày càng tự do, thông thoáng hơn.
III. Tác động của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế phức tạp, có cả tích cực và tiêu cực, mang lại những cơ hội lớn, đồng thời đặt ra những thách thức lớn đối với mọi quốc gia.
1. Tích cực
- Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh sự phát triển và xã hội hóa các lực lượng sản xuất, đưa lại tăng trưởng kinh tế cao. Toàn cầu hóa góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt tăng mạnh tỷ trọng các sản phẩm chế tác và các dịch vụ trong cơ cấu kinh tế thế giới.
- Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế truyền bá và chuyển giao những đột phá sáng tạo về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản xuất và kinh doanh.
- Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế tạo thêm khả năng phát triển rút ngắn và mang lại những nguồn lực rất quan trọng, rất cần thiết cho các nước đang phát triển, từ các nguồn vốn vật chất đến các nguồn tri thức và kinh nghiệm cả ở tầm vĩ mô của quốc gia và ở tầm vi mô của từng doanh nghiệp và từng hộ.
- Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy sự xích lại gần nhau của các dân tộc, kích thích trao đổi giao lưu kinh tế, cũng như văn hóa.
- Toàn cầu hóa với sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO mang lại 4 điều lợi: thị trường toàn cầu, sự công bằng trong đối xử thương mại quốc tế, không phải chịu sự hạn ngạch và có quyền đưa ra tiếng nói vào các chính sách thương mại toàn cầu.
2. Tiêu cực
- Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước.
- Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế làm cho mọi hoạt động và đời sống của con người thêm phần kém an toàn, từ an toàn của từng con người, từng gia đình đến an toàn quốc gia và an toàn của hệ thống kinh tế, tài chính, tiền tệ toàn cầu.
- Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế có phần thu hẹp quyền lực, phạm vi và hiệu quả tác động của các Nhà Nước – dân tộc.
- Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đặc biệt đặt các nước đang phát triển trước những thách thức mà vượt qua thắng lợi thì cái được rất lớn, còn ứng phó thất bại thì cái mất rất to.
Dù vậy, trong thế giới ngày nay, thực tế không có một quốc gia nào, không có một nhà hoạch định chính sách nào chống lại hội nhập kinh tế quốc tế, đi ngược lại một xu thế của thời đại, dẫu đó là một xu thế phức tạp chứa đựng cả những mưu đồ đen tối của siêu cường này, cường quốc khác. Cự tuyệt toàn cầu hoá, ngỡ rằng có thể đóng cửa tự lực tự cường là điều không thể, bài học của Liên Xô là một điển hình cho lối suy nghĩ thiển cận ấy. Vì vậy, để phát triển các quốc gia phải mở cửa nền kinh tế giao lưu với các nền kinh tế khác trong khu vực và trên thế giới.
IV. Tác động của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập đối với Việt Nam
1. Tích cực
- Thúc đẩy mạnh và nhanh sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.
- Tạo điều kiện thuận lợi truyền bá và chuyển giao ngày càng lớn những thành quả về khoa học – công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản xuất và kinh doanh.
- Có cơ hội tiếp nhận những nguồn lực quan trọng và cần thiết như nguồn vốn vật chất, nguồn tri thức và những kinh nghiệm về quản lý kinh tế vi mô, quản lý kinh tế vĩ mô.
- Xu thế “ mở của kinh tế” quốc gia tác động đến chính sách kinh tế đối ngoại của chính phủ.
- Thúc đẩy sự phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước, làm cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn.
2. Tiêu cực
- Toàn cầu hóa làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, khoảng cách giàu nghèo của Việt Nam đối với các nước ngày càng xa.
- Toàn cầu hóa làm cho mọi mặt hoạt động và đời sống con người thêm kém an toàn trong các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội….
- Toàn cầu hóa làm thu hẹp phần nào quyền lực của quốc gia.
- Toàn cầu hóa đặt ra cho đất nước những thách thức to lơn, nếu vượt qua được thì có thắng lợi rất lớn.
- Sự phát triển kinh tế của đất nước ngày càng bị phụ thuộc vào các mối quan hệ với bên ngoài.
B. SỰ TÁC ĐỘNG CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
1. Sự phát triển của khoa học công nghệ
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đầu thế kỉ XX đã đem lại những biến đổi to lớn, sâu sắc trong sản xuất và đời sống con người. cuộc cách mạng khoa học công nghệ tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật của một nền kinh tế phát triển cao hơn hẳn nền kinh tế công nghiệp, được gọi với những tên khác nhau: kinh tế sau công nghiệp, kinh tế số hóa, kinh tế thông tin, kinh tế tri thức.
Khó có thể kể hết mọi thành tựu của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, nhưng thành tựu vừa có tính cơ bản, vừa có tính tổng hợp của nó là máy điều khiển tự động có khả năng làm công việc trí óc trong chức năng điều khiển con người. Các máy điều khiển tự động đã mở ra hai công nghệ mới có quan hệ mật thiết với nhau, xâm nhập lẫn nhau, ứng dụng rộng rãi không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong cả hầu hết các lĩnh vực kinh tế-xã hội đó là công nghệ tự động hoá và công nghệ thông tin.
Như vậy trải qua thời gian khoa học công nghệ ngày càng đạt được những thành tựu kì diệu theo hướng ngày càng hoàn thiện từ cơ khí, điện khí đến điện tử học vi mô, sinh học; từ loại hình tiêu tốn nhiều năng lượng đến dạng tự động hoá sử lý thông tin; từ nền công nghiệp của những ống khói nhà máy đến nền kinh tế “mềm” nhiều yếu tố dịch vụ-tượng trưng.
2. Tác động của khoa học công nghệ đến nền kinh tế thế giới
Khoa học công nghệ ngày càng phát triển như vũ bão có tác động sâu sắc tới nền kinh tế thế giới, tuy nhiên sự tác động đó có tính hai mặt
a. Tích cực
- Khoa học công nghệ làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển lên tầm cao mới, đội ngũ cán bộ khoa học ngày càng được đào tạo chuyên sâu đáp ứng nhu cầu của sự phát triển, số lượng các nhà khoa học tăng nhanh chủ yếu hoạt động trong các ngành đòi hỏi trình độ chuyên môn cao như điện tử, công nghệ thông tin, năng lượng….
- Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, năng xuất lao động tăng cao một cách rõ rệt, khiến tăng trưởng kinh tế vượt bậc cụ thể tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2000 đã vượt quá mức tăng trưởng kinh tế của cả thế kỉ XIX đạt mức tăng trưởng kinh tế 4,9%.
- Do năng xuất lao động xã hội ngày càng tăng cao đòi hỏi các nước các nước phải mở rộng thị trường, trao đổi buôn bán với các nước khác do vậy vô hình chung đã làm cho thương mại quốc tế ngày càng phát triển.
- Bên cạnh đó, thông qua các hoạt động thương mại quốc tế quá trình chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia ngày càng được phát triển, nếu như trước đây chỉ có các nước có nền kinh tế phát triển mới có đủ điều kiện ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất thì ngày nay thông qua hoạt động thương mại quốc tế quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra mạnh mẽ các nước đang phát triển cũng sớm được tiếp cận với những thành tựu của khoa học công nghệ và ứng dụng rộng rãi vào sản xuất, điều này góp phần rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia.
- Sự phát triển của thương mại quốc tế không những thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ phát triển mà nó còn thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu sắc điều này kéo theo nó là sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong từng quốc gia và giữa các quốc gia với nhau.
b. Tiêu cực
Khoa học công nghệ đã để lại cho nhân loại những thành tựu rực rỡ có đóng góp tích cực cho sự phát triển nền kinh tế thế giới tuy nhiên bên cạnh đó nó vẫn còn có mặt tiêu cực tác động trở lại cụ thể:
- Việc ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, máy móc đã thay thế cho sức lao động của con người điều này làm cho nhu cầu về sức lao động của con người ngày càng giảm dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp ngày càng lên theo Tổ chức Lao động Quốc tế ILO cho biết tỷ lệ thất nghiệp trên toàn thế giới năm 2007 lên đến 190 triệu người.
- Sự phát triển của khoa học công nghệ cùng với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế làm cho sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, đặc biệt là các nước nghèo có nguy cơ phải chịu sự phụ thuộc rất lớn vào các nước phát triển về mặt công nghệ và thị trường.
3. Tác động của khoa học công nghệ đối với Việt Nam
a. Tích cực
Việt Nam, một nước đang phát triển nền khoa học công nghệ còn rất yếu kém, do vậy tác động của khoa học công nghệ đem lại cho nước ta nhiều lợi ích to lớn:
- Tiếp cận nhanh với các thành tựu của khoa học công nghệ, để từ đó ứng dụng vào sản xuất, từng bước đưa nền kinh tế phát triển ngày càng nhanh đặc biệt là rút ngắn thời gian và đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
- Sự phát triển của điện tử viễn thông và công nghệ thông tin làm cho con người nắm bắt thông tin và sử lý thông tin nhanh chóng, từng bước nâng cao trình độ đặc biệt là lao động trong có trình độ chuyên môn cao.
- Thông qua hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động thương mại của Việt Nam ngày càng phát triển, thị trường tiêu thụ của hàng hoá Việt nam đã ngày càng mở rộng nhiều sản phẩm của Việt Nam đã đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ví dụ như các sản phẩm của ACECOOk Việt Nam.
b. Tiêu cực
- Khả năng hụ thuộc vào các nước, đặc biệt là các nước phát triển như Mỹ, Liên minh Châu Âu…
- Khoa học công nghệ phát triển, đòi hỏi một lượng lớn nguồn nhân lực để sử dụng, vận hành chúng, vấn đề nguồn nhân lực cũng đang là một trong những khó khăn của nước ta hiện nay. Ví dụ như, nhân lực cho kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận của Việt Nam.
- Rất nhiều trong số các dây chuyền công nghệ mà Việt Nam nhập từ nước ngoài đều đã lỗi thời, hoặc là đồ phế thải mà các nước phát triển không muốn dùng nữa do vậy khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam rất kém.
C. XU HƯỚNG CẢI CÁCH KINH TẾ VÀ TƯ NHÂN HÓA, CỔ PHẦN HÓA
I. Vài nét sơ lược về xu hướng cải cách kinh tế
Thương mại quốc tế đã và đang phát triển mạnh mẽ với tốc độ ngày càng nhanh, quy mô ngày càng lớn. Để tồn tại và phát triển, xu hướng cải cách kinh tế lan rộng khắp các quốc gia nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các hàng hóa, dịch vụ.
Đối với bất cứ một quốc gia nào khi đời sống của người dân còn thấp, kinh tế chậm phát triển thì cải cách kinh tế trở thành vấn đề cấp bách và cần phải tiến hành trước tiên. Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 70 đến đầu những năm đầu thập kỷ 90 đã làm cho nền kinh tế trì trệ và suy thoái kinh tế kéo dài, hầu hết các nước đều tìm cách điều chỉnh và cải cách thể chế kinh tế.
Cụ thể đối với các nước Phương Tây tiến hành điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô, đề xướng việc giảm mạnh sự can thiệp của Nhà nước tăng cường vai trò của cơ chế thị trường. Đối với các nước đang phát triển thì thiên về điều chỉnh và cải cách thể chế xí nghiệp, các nước XHCN lại nhấn mạnh việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ sang nền kinh tế thị trường XHCN để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và đến nay, làn sóng cải cách kinh tế đã mở rộng khắp thế giới và phát triển kinh tế thị trường đã trở thành trào lưu trên toàn thế giới.
II. Tư nhân hóa cổ phần hóa
Cải cách kinh tế luôn đi đôi với tư nhân hóa, cổ phần hoá trong xu thế phát triển của thương mại quốc tế.
1. Tư nhân hoá
Khái niệm: Tư nhân hóa là một quá trình chuyển đổi về hình thức sở hữu của một doanh nghiệp nhà nước sang tay tư nhân với mục tiêu là để cho các cơ sở tư nhân có được cơ chế lành mạnh, phù hợp với thông lệ quốc tế và khai thác được tối đa khả năng hoạt động hiệu quả của cơ sở đó.
Thực tế cho thấy rằng, đại đa số các cơ sở xuất phát từ công hữu, trước khi chuyển đổi bị thua lỗ triền miên chủ yếu dựa vào sự chu cấp và giúp đỡ từ nhà nước. Tuy nhiên khi chuyển đổi sang tư nhân đã lập tức hoạt động có hiệu quả, thậm chí nhiều công ty tư nhân làm ăn rất có lãi.
Ví dụ cụ thể như nước pháp, họ đã tiến hành tư nhân hoá hãng Air France vốn thua lỗ triền miên, sau khi tư nhân hoá công ty này đã làm ăn rất có hiệu quả và đã sát nhập với cả hãng hàng không KLM của Hà Lan. Như vậy có thể thấy tư nhân hoá đã làm giảm tải mạnh mẽ áp lực về tiền mặt và chiếm dụng tài nguyên quốc gia, ngân sách bớt gánh nặng, và qua đó ta lại có nguồn thu từ thuế và các khoản khác đem lại.
Tư nhân hoá là một xu hướng mà hiện nay rất nhiều các quốc gia đang thực hiện bởi những ưu điểm của nó, và nó là tiền đề, cơ sở vững chắc cho định hướng hoạt động trong thương mại quốc tế của các quốc gia.
2. Cổ phần hoá
Cổ phần hóa có thể được hiểu là việc chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
Tuy nhiên phải chú ý ở đây là ta không nên nhầm lẫn tư nhân hoá và cổ phần hoá là một vì với những doanh nghiệp mà nhà nước nắm giữ trên 50% vốn sau khi cổ phần, thì theo Luật Doanh Nghiệp nó vẫn là doanh nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá sẽ giúp cho doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn vì họ sẽ tự thân vận động, có động lực để vươn lên chứ nếu cứ để là doanh nghiệp nhà nước thì sẽ không hiệu quả bởi sự ỉ lại, trì trệ trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước, dẫn đến thiếu cơ sở và nguồn lực cho thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế, điều đó lại càng hạn chế hoạt động thương mại của một quốc gia với bên ngoài.
II. Xu hướng cải cách kinh tế và tư nhân hóa, cổ phần hóa ở Việt Nam và tác động của nó
Việt Nam đã và đang cố gắng để khẳng định được vị thế của mình trong môi trường kinh tế quốc tế, sự thay đổi rõ rệt trong việc cải cách nền kinh tế theo hướng tư nhân hoá, cổ phần hoá thể hiện ở thời điểm năm 1986 khi Đảng và Nhà nước ta quyết định chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập với quốc tế để nền kinh tế quốc gia tiếp cận với các cơ hội và thách thức trong cơ chế thị trường trên phạm vi thế giới.
Thực tế thì xu hướng tư nhân hoá, cổ phần hoá bắt đầu được thử nghiệm và nhân rộng ở Viêt Nam vào đầu những năm 90 và nó đã mang lại rất nhiều kết quả thiết thực, thúc đẩy cho việc giao lưu thương mại với các nước.
Cụ thể tại Hội nghị toàn quốc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước năm 2005 đã cho biết: Qua cổ phần, doanh nghiệp được cơ cấu theo hướng tập trung quy mô lớn, hướng vào những ngành, lĩnh vực kinh tế then chốt của nền kinh tế, quy mô vốn của doanh nghiệp nhà nước được tăng lên đáng kể năm 2001, vốn bình quân của doanh nghiệp nhà nước khoảng 24 tỷ đồng, nay tăng lên đến 63,6 tỷ đồng, tài chính doanh nghiệp lành mạnh hoá thông qua việc cơ cấu lại các khoản nợ, xử lý tài sản là vật tư, hàng hoá ứ đọng, tồn kho, máy móc thiết bị cũ…Qua thực tế hoạt động hơn 1 năm của 850 doanh nghiệp cổ phần cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận hiện thực tăng 139,76%, nộp ngân sách tăng 24,9%.
Như vậy, cải cách kinh tế theo hướng tư nhân hóa cổ phần hóa đánh một dấu mốc quan trọng đưa kinh tế nước ta thoát khỏi nền kinh tế tập trung vốn đã trì trệ và bị lên án bấy lâu chuyển sang một hướng mới.
Tuy nhiên bên cạnh đó thì vẫn còn một vài tồn tại đó là số lượng các doanh nghiệp cổ phần hoá tuy tăng đáng kể trong những năm gần đây nhưng vẫn còn hạn chế so với yêu cầu và mục tiêu đạt ra, tốc độ cổ phần chậm và thời gian thực hiện bị kéo dài…Mặt khác để có thể tiến hành cải cách kinh tế